|
Nghiên cứu xây dựng công cụ dự báo lũ và vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Hồng
Số 93 (3/2025)
>
trang 03-08
|
Tải về (2494.24 KB)
Nguyễn Hoàng Sơn*, Ngô Lê An, Vũ Thị Minh Huệ
|
Tóm tắt
Trên hệ thống sông Hồng, rất nhiều các hồ chứa lớn có vai trò quan trọng trong việc phòng chống lũ, phát điện, cấp nước. Trong những năm gần đây lũ xảy ra trên hệ thống sông Hồng ngày càng bất thường, đặc biệt là năm 2024 với nhiều mốc lũ lịch sử đã bị vượt qua. Trong khi đó, công tác dự báo chủ yếu được thực hiện trên các công cụ, phần mềm riêng, từ nhiều nguồn khác nhau dẫn đến việc cung cấp thông tin dự báo chậm, ngắt quãng, chưa kịp thời. Do vậy, việc nghiên cứu xây dựng công nghệ dự báo/cảnh báo lũ và vận hành hệ thống liên hồ cập nhật theo thời gian vì thế có ý nghĩa thực tế và cấp bách. Nghiên cứu này trình bày bộ công cụ dự báo lũ và vận hành liên hồ chứa để tính toán dự báo lũ trên hệ thống sông Hồng trực tiếp trên nền Web. Các kết quả dự báo thực hiện trên máy chủ nên kết quả tính toán hiển thị liên tục, tức thời trên hệ thống. Kết quả thử nghiệm năm 2024, đặc biệt là trong đợt bão Yagi từ 6-15/9/2024 cho thấy kết quả dự báo đạt rất tốt. Việc ứng dụng công cụ tính toán trực tuyến trên nền Web có thể giúp chủ động cung cấp bản tin dự báo trực tiếp và trực tuyến đến người dân. Giúp các nhà quản lý có thể kiểm tra, giám sát và điều hành công tác phòng chống lụt bão, thiên tai hiệu quả hơn. Từ khoá: Sông Hồng, dự báo lũ, quy trình vận hành, Việt Nam. |
|
|
Đánh giá diễn biến mực nước theo thập kỷ tại các điểm quan trắc nước dưới dất điển hình tỉnh Long An
Số 93 (3/2025)
>
trang 09-16
|
Tải về (9257.33 KB)
Nguyễn Đăng Tính, Võ Văn Tiền*, Ngô Đức Chân
|
Tóm tắt
Cùng với sự gia tăng nhu cầu sử dụng nước do phát triển kinh tế xã hội trong hai thập kỷ qua, bên cạnh đó, nguồn nước mặt đang đối mặt với ô nhiễm, cạn kiệt dẫn đến nhu cầu khai thác nước dưới đất ngày càng gia tăng. Nghiên cứu sử dụng số liệu quan trắc tại các cụm giếng quan trắc điển hình trong mạng lưới quan trắc nước dưới đất Quốc gia để đánh giá. Kết quả đánh giá diễn biến mực nước ở các tầng chứa nước (TCN) trong phạm vi tỉnh Long An thấy rằng, mực nước trong 6 TCN có xu thế giảm, có sự biến động theo mùa và biên độ dao động khác nhau tùy theo tầng chứa nước. Giai đoạn trước năm 2000, mực nước ở các TCN có giảm nhưng rất ít. Giai đoạn từ sau năm 2000 đến nay, mực nước ở các TCN đều có xu thế thế giảm nhanh với tốc độ sụt giảm mực nước tĩnh khá lớn, từ 20-70cm/năm, tùy theo khu vực và mức độ khai thác ở TCN. Đặc biệt, những năm gần đây, tốc độ sụt giảm mực nước tĩnh rất lớn so với giai đoạn trước, giữa các TCN khác nhau. Từ khóa: Tầng chứa nước, mực nước tĩnh, Long An, giếng khai thác, quan trắc |
|
|
Ảnh hưởng của thành phần hạt cát nghiền đến các đặc tính của bê tông sau khi đổ
Số 93 (3/2025)
>
trang 17-21
|
Tải về (1138.63 KB)
Nguyễn Việt Đức*, Vũ Quốc Vuơng
|
Tóm tắt
Cát nghiền đã được nghiên cứu sử dụng tại Việt Nam từ đầu những năm 2000. Hiện nay, loại cát này đã và đang được ứng dụng trong các công trình xây dựng dân dụng và một số công trình quan trọng của đất nước. Mặc dù vậy cho đến nay vẫn còn khá ít nghiên cứu về ảnh hưởng của thành phần hạt cát nghiền đặc biệt là hàm lượng bột mịn < 0,14mm đến các đặc tính của bê tông sau khi đổ. Kết quả nghiên cứu trong bài báo này tác giả đã chỉ ra bê tông có cấp phối với cát nghiền có tỷ lệ 10% hàm lượng bột mịn có co ngót mềm (1h, 3h, 5h) và co ngót khô (90 ngày) là thấp nhất. Ngoài ra, khi nghiên cứu chế tạo bê tông mác 200, 300, và 400 với các hàm lượng bột mịn < 0,14mm khác nhau, thì hàm lượng bột mịn 5-10% đem lại kết quả cường độ nén cao nhất với thử nghiệm khả năng kháng nén ở 90 ngày tuổi. Từ khóa: Cát nghiền, thành phần hạt, độ co ngót của bê tông, cường độ nén của bê tông |
|
|
Đánh giá mức sẵn lòng chi trả của du khách và người dân nhằm góp phần phát triển du lịch bền vững tại vườn quốc gia Xuân Thủy, Nam Định
Số 93 (3/2025)
>
trang 22-28
|
Tải về (1639.23 KB)
Đinh Thu Huyền*, Hoàng Thị Huê, Nguyễn Thị Hoài Thương
|
Tóm tắt
Bài báo đánh giá mức sẵn lòng chi trả của du khách và người dân nhằm đóng góp vào sự phát triển du lịch bền vững tại Vườn quốc gia Xuân Thủy, Nam Định. VQG này có diện tích 15.100 ha, trong đó 12.000 ha là Khu Ramsar, một điểm du lịch sinh thái quan trọng. Nghiên cứu áp dụng phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (CVM) để xác định mức sẵn lòng chi trả (WTP) của du khách cho quỹ bảo tồn và các yếu tố ảnh hưởng đến mức chi trả của họ. Kết quả cho thấy, phần lớn du khách (88%) sẵn sàng đóng góp từ 10.000 - 50.000 đồng/lượt, với mức độ sẵn lòng chi trả cao hơn đối với những du khách nhận thức được ảnh hưởng của du lịch đến đa dạng sinh học và chi phí du lịch. Cộng đồng địa phương cũng thể hiện sự sẵn sàng đóng góp cao vào quỹ bảo tồn với tỉ lệ 84% người, với mức chi trả trong khoảng từ 10.000 - 50.000 đồng/quý, chủ yếu phụ thuộc vào thu nhập và thời gian tham gia du lịch. Để thúc đẩy phát triển du lịch bền vững, nghiên cứu khuyến nghị tăng cường giám sát bảo vệ đa dạng sinh học, phục hồi hệ sinh thái và nâng cao nhận thức cộng đồng về bảo vệ môi trường, đồng thời đề xuất giải pháp tài chính như tăng giá vé tham quan và dịch vụ lưu trú. Từ khoá: Tác động du lịch, phát triển du lịch bền vững, vườn quốc gia Xuân Thủy, sẵn lòng chi trả, đa dạng sinh học |
|
|
Đánh giá sơ bộ chất lượng các sản phẩm mưa radar và mưa vệ tinh cho tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2020-2023
Số 93 (3/2025)
>
trang 29-34
|
Tải về (2651.75 KB)
Nguyễn Thái Sơn, Nguyễn Tiến Thành*
|
Tóm tắt
Trong nghiên cứu này, nhóm tác giá đã đánh giá chất lượng các sản phẩm mưa từ radar Đông Hà (DHA) và mưa vệ tinh GSMaP, GPM, CHIRPS và MSWEP sử dụng các chỉ số đánh giá thống kê R, MAE, RMSE và CSI. Kết quả cho thấy sản phẩm mưa MSWEP cho kết quả tốt nhất với hệ số tương quan 0.59, chỉ số MAE (48 mm/ngày) và RMSE (23 mm/ngày), tiếp sau là các sản phẩm DHA và GSMap. Sản phẩm CHIRPS và GPM cho kết quả là kém nhất. Liên quan tới pha mưa, gần như không có sự chênh lệch đáng kể giữa các sản phẩm mưa DHA, GSMap và MSWEP. Vì vậy, đối với địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, nhóm tác giả khuyến nghị có thể sử dụng dữ liệu MSWEP trong các bài toán rủi ro liên quan tới nước, phân tích mưa lớn cục bộ, bài toán tưới tiêu và đặc biệt tính toán và phân tích lũ lụt và hạn hán phục vụ công tác phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai, bổ sung nguồn dữ liệu mưa cho những khu vực thiếu và/hoặc hạn chế dữ liệu đo. Từ khoá: Thừa Thiên Huế, mưa vệ tinh, mưa radar |
|
|
Nghiên cứu ứng xử của kết cấu khung ống thép dưới tác dụng của lực va chạm dựa trên mô hình phần tử hữu hạn
Số 93 (3/2025)
>
trang 35-41
|
Tải về (3079.08 KB)
Vũ Quốc Công, Vũ Hoàng Hưng*, Nguyễn Chí Thanh
|
Tóm tắt
Khung ống thép có thiết bị tiêu tán năng lượng là một kết cấu mới được đề xuất để ngăn dòng bùn đá trên các kênh, suối vùng miền núi. Kết cấu này đã được nghiên cứu trên mô hình vật lý và cho thấy hiệu quả của gối đàn hồi khi chịu tác dụng của lực va chạm. Tuy nhiên, phương pháp thí nghiệm trên mô hình vật lý cần nhiều thời gian, kinh phí và giới hạn khả năng của thiết bị phòng thí nghiệm nên chỉ xem xét được một số yếu tố cơ bản. Chính vì vậy bài báo đã tiến hành xây dựng mô hình phần tử hữu hạn kết cấu khung được đề xuất dựa trên phần mềm ANSYS theo ngôn ngữ lập trình tham số để nghiên cứu ứng xử của kết cấu dưới tác dụng của lực va chạm được thuận tiện và nhanh chóng. Thông qua mô hình phần tử hữu hạn đã được kiểm nghiệm, tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của một vài tham số đến trạng thái chuyển vị và ứng suất trong khung. Từ khoá: Lũ bùn đá, lực va chạm, FEM, gối đàn hồi, khung thép ống |
|
|
Nghiên cứu đề xuất giải pháp nâng cao khả năng huy động nguồn thủy điện khi xét đến tương quan chế độ dòng chảy trên các lưu vực sông lớn ở Việt Nam
Số 93 (3/2025)
>
trang 42-49
|
Tải về (1540.77 KB)
Hoàng Công Tuấn*, Nguyễn Văn Nghĩa, Phan Trần Hồng Long, Nguyễn Đức Nghĩa
|
Tóm tắt
Ở Việt Nam, các nhà máy thủy điện được xây dựng trên các sông phân bố trên khắp vùng miền của cả nước. Kết quả nghiên cứu mối tương quan chế độ dòng chảy trên các sông lớn đã cho thấy sự lệch pha về tần suất dòng chảy giữa các lưu vực sông. Trong khi đó, chế độ vận hành của các nhà máy thủy điện phụ thuộc rất lớn vào chế độ dòng chảy. Kết quả tính toán, đánh giá khả năng huy động nguồn thủy điện có xét đến tương quan chế độ dòng chảy trên các lưu vực sông lớn đã làm rõ được mức độ ảnh hưởng của sự lệch pha dòng chảy đến khả năng tham gia của nguồn thủy điện trong hệ thống điện. Từ các kết quả thu được, các tác giả sẽ tổng hợp, phân tích, từ đó đề xuất giải pháp nâng khả năng cao huy động nguồn thủy điện khi xét đến mối tương quan chế độ dòng chảy nhằm nâng cao bảo đảm an toàn cung cấp điện và góp phần giảm chi phí cho hệ thống điện. Từ khóa: Lệch pha dòng chảy, điện lượng bảo đảm, thủy điện, hệ thống điện |
|
|
Độ bền và vi cấu trúc của vữa sử dụng xỉ đáy lò đốt rác thay thế cát tự nhiên
Số 93 (3/2025)
>
trang 50-56
|
Tải về (5022.17 KB)
Nguyễn Văn Dũng*, Nguyễn Thị Thanh, Mai Thị Hồng
|
Tóm tắt
Với tốc độ đô thị hóa ngày càng tăng, các chất thải rắn sinh hoạt được thải ra hàng ngày cũng tăng lên đáng kể, việc xử lý chúng bằng phương pháp đốt mang lại nhiều lợi ích thiết thực. Tuy nhiên, khi đốt rác thải sinh hoạt sẽ phát sinh một lượng lớn xỉ đáy gây ảnh hưởng đến đến môi trường và sức khỏe con người. Thêm vào đó, do nhu cầu xây dựng ngày càng cao, dẫn đến tình trạng thiếu hụt cát ngày càng trở nên nghiêm trọng. Nghiên cứu này sử dụng xỉ đáy lò đốt rác thay thế cát tự nhiên trong sản xuất vữa xây dựng với các hàm lượng lần lượt là 0%, 25%, 50%, 75% và 100% theo khối lượng. Ảnh hưởng của hàm lượng xỉ đáy lò đốt rác lên độ bền và vi cấu trúc của vữa được nghiên cứu. Kết quả thí nghiệm cho thấy bề mặt xốp và vết nứt được quan sát thấy trên hình ảnh vi cấu trúc của mẫu vữa sử dụng xỉ đáy lò đốt rác. Khi tăng hàm lượng xỉ đáy lò đốt rác, cường độ chịu nén và độ truyền nhiệt giảm trong khi độ co khô và độ giãn nở sun phát tăng. Tuy nhiên, tất cả các mẫu vữa đều đạt cường độ chịu nén lớn hơn 30 MPa tại 28 ngày tuổi và 34 MPa tại 56 ngày tuổi, đảm bảo yêu cầu kỹ thuật theo tiêu chuẩn Việt Nam hiện hành về vữa xây dựng (TCVN 4314-2022). Từ khóa: Xỉ đáy lò đốt rác, vữa xây dựng, cát tự nhiên, hình ảnh vi cấu trúc, độ giãn nở sun phát |
|
|
Xác định giá sản phẩm, dịch vụ thủy lợi phản ánh đầy đủ chi phí: Nghiên cứu điển hình tại thành phố Hồ Chí Minh
Số 93 (3/2025)
>
trang 57-64
|
Tải về (641.42 KB)
Trương Đức Toàn
|
Tóm tắt
Giá nước được xem là công cụ chính sách quan trọng trong quản lý và sử dụng bền vững tài nguyên nước. Trong lĩnh vực thủy lợi, giá sản phẩm, dịch vụ thủy lợi về mặt nguyên tắc cũng được yêu cầu phải được tính toán đảm bảo phản ánh đầy đủ chi phí. Tuy nhiên trên thực tế hiện nay, việc tính giá sản phẩm, dịch vụ thủy lợi vẫn chỉ được tiếp cận bao gồm các thành phần chi phí trực tiếp ở nội bộ hệ thống và thường bỏ qua các yếu tố ở các cấp hệ thống có liên quan khác. Nghiên cứu này trình bày quy trình và phương pháp xác định giá sản phẩm, dịch vụ thủy lợi phản ánh đầy đủ chi phí và áp dụng cho trường hợp Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu chỉ rõ việc xác định giá cần phải xem xét tất cả các yếu tố chi phí có liên quan để đảm bảo mục tiêu của định giá. Nghiên cứu này nhấn mạnh sự cần thiết phải áp dụng phương pháp tính giá phản ánh đầy đủ chi phí đối với các hệ thống công trình thủy lợi để chính sách giá sản phẩm, dịch vụ thủy lợi phản ánh đúng thực tế. Từ khóa: Giá phản ánh đầy đủ chi phí, phương pháp định giá, sản phẩm, dịch vụ thủy lợi, chính sách, phát triển bền vững |
|
|
Thủy điện tích năng (PSP) và pin lưu trữ (BSS): Phân tích chi phí, hiệu suất và tác động môi trường
Số 93 (3/2025)
>
trang 65-72
|
Tải về (828.37 KB)
Nguyễn Văn Nghĩa*, Nguyễn Thị Nhớ
|
Tóm tắt
Bài báo này phân tích và so sánh chi phí, hiệu suất và tác động môi trường của hai công nghệ lưu trữ năng lượng: Thủy điện tích năng (PSP) và Pin lưu trữ (BSS). Nghiên cứu sử dụng chỉ số chi phí năng lượng trung bình (LCOE) để đánh giá hiệu quả kinh tế. Kết quả cho thấy PSP có LCOE thấp hơn đáng kể so với BSS, đồng thời vượt trội về độ bền và mức phát thải CO₂ thấp, phù hợp với các dự án lưu trữ năng lượng quy mô lớn. Ngược lại, BSS nổi bật với hiệu suất cao và khả năng phản ứng nhanh, phù hợp cho các ứng dụng yêu cầu linh hoạt và tích hợp năng lượng tái tạo. Nghiên cứu cung cấp cơ sở khoa học để lựa chọn hệ thống lưu trữ năng lượng, cân đối giữa chi phí, hiệu suất và tính bền vững trong bối cảnh phát triển năng lượng tái tạo. Từ khóa: Thủy điện tích năng, Pin lưu trữ, chi phí năng lượng trung bình (LCOE), hệ thống lưu trữ, hiệu suất, chi phí, tác động môi trường |
|
|
Nghiên cứu khả năng hấp thụ năng lượng của hộp va chạm khi biến dạng ở tốc độ cao
Số 93 (3/2025)
>
trang 73-80
|
Tải về (2194.56 KB)
Phạm Thị Hằng*, Phạm Viết Hiếu
|
Tóm tắt
Trong nghiên cứu này, khả năng hấp thụ năng lượng của hộp va chạm ở tốc độ cao được đánh giá từ các kết quả mô phỏng. Độ tin cậy của kết quả mô phỏng được kiểm chứng khi so sánh với nghiên cứu trước đây. Ảnh hưởng của các thông số hình học hộp va chạm đến khả năng hấp thụ năng lượng được xem xét với vật liệu là hợp kim nhôm A6061-T6. Kết quả cho thấy khi tăng chu vi mặt cắt ngang của hộp va chạm từ 190mm lên 250mm đều làm tăng khả năng hấp thụ năng lượng trừ trường hợp tiết diện chữ nhật rỗng. Khả năng hấp thụ năng lượng giảm đáng kể khi tiết diện mặt cắt ngang không đồng đều. Trong các trường hợp khảo sát, hộp va chạm có tiết diện lục giác rỗng với chu vi 190mm cho kết quả năng lượng hấp thụ riêng tốt nhất. Do đó, trường hợp này nên được lựa chọn để khả năng hấp thụ năng lượng tốt nhất mà vẫn đảm bảo khối lượng của xe không tăng với vật liệu làm hộp va chạm là hợp kim nhôm A6061-T6. Từ khóa: Hộp va chạm, hấp thụ năng lượng, an toàn xe hơi, va chạm |
|
|
Nghiên cứu lựa chọn các phần tử chính của hệ thống tời thủy lực phục vụ nâng hạ cửa van thủy điện, thủy lợi (tải trọng đến 110 tấn)
Số 93 (3/2025)
>
trang 81-87
|
Tải về (4062.73 KB)
Nguyễn Minh Tuấn*, Nguyễn Ngọc Linh, Nguyễn Thị Nhớ, Lê Đình Hưng
|
Tóm tắt
Hiện nay, nhu cầu sử dụng các thiết bị nâng hạ phục vụ trong các ngành kinh tế của nước ta rất lớn, đặc biệt trong lĩnh vực thuỷ điện, thuỷ lợi. Tại Việt Nam hiện nay, đang có 385 công trình thủy điện vận hành. Ngành thủy lợi đang quản lý, khai thác hơn 7.000 hồ chứa với các loại dung tích khác nhau và hàng chục ngàn cửa van các loại phục vụ công tác điều tiết nước. Để nâng hạ các cửa van này, thiết bị nâng có thể là xi lanh, tời, vít me. Đối với thiết bị tời hầu hết là tời cơ khí điện với hộp giảm tốc ăn khớp ngoài, kết cấu cồng kềnh, hiệu suất thấp. Với trình độ khoa học công nghệ phát triển như hiện nay, cần nghiên cứu giải pháp thiết bị mới nhằm khắc phục các nhược điểm nêu trên của tời cơ khí - điện, tời thủy lực sử dụng hộp giảm tốc bánh răng hành tinh là giải pháp tối ưu, với các ưu điểm: Gọn nhẹ, hiệu suất cao, khả năng tự động hóa cao. Bài báo giới thiệu về kết cấu và phương pháp tính toán, lựa chọn một số phần tử chính của hệ thống tời thuỷ lực có tải trọng nâng đến 110 tấn. Từ khóa: Tời thuỷ lực, hộp giảm tốc bánh răng hành tinh, chiều cao nâng, tốc độ nâng |
|
|
Đánh giá sự thay đổi sử dụng đất liên quan đến ngập đô thị tại thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long
Số 93 (3/2025)
>
trang 88-94
|
Tải về (7510.88 KB)
Phạm Tấn Lợi, Nguyễn Văn Tho, Lâm Tấn Phát, Trần Văn Tỷ*
|
Tóm tắt
Mục tiêu của nghiên cứu này là phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề ngập lụt đô thị tại thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long. Nghiên cứu này sử dụng ảnh viễn thám Google Earth để đánh giá hiện trạng sự thay đổi sử dụng đất và ngập đô thị. Các số liệu liên quan được thập để đánh giá mức độ ngập do triều cường và mưa. Sau đó tiến hành khảo sát thực địa để kiểm chứng kết quả phân tích ảnh viễn thám. Kết quả khảo sát và phân tích cho thấy thực trạng quá trình đô thị hóa đã dẫn đến sự gia tăng diện tích bê tông trong khi làm suy giảm nghiêm trọng không gian cây xanh. Thực trạng này không chỉ tác động xấu đến môi trường mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sống của cư dân đô thị, dẫn đến việc bảo tồn và mở rộng các mảng xanh trở thành một thách thức lớn trong các đô thị hiện đại gây nên tình trạng ngập đô thị chủ yếu do triều cường kết hợp với mưa. Như vậy, để giải quyết vấn đề ngập cần nghiên cứu xây dựng hệ thống công trình đê bao, cống ngăn triều và ứng dụng các biện pháp thoát nước bền vững. Từ khóa: Ảnh viễn thám, đô thị hóa, ngập đô thị, Vĩnh Long |
|
|
Loại bỏ thuốc nhuộm Methylene Blue trong nước bằng phương pháp xanh
Số 93 (3/2025)
>
trang 95-101
|
Tải về (987.93 KB)
Đinh Thị Lan Phương*, Cao Thị Hà Vy
|
Tóm tắt
Ô nhiễm methylene blue (MB) từ nước thải công nghiệp đang là mối quan tâm ngày càng tăng do khả năng khó phân hủy sinh học và gây hại cho sức khỏe con người. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã tổng hợp vật liệu Fe/Fe2O3/Fe3O4 (IOM) từ dịch chiết lá bạch đàn. Kết quả cho thấy vật liệu được tạo ra có màu đen, dạng bột mịn với kích thước nano từ 20-50 nm, đặc tính vật liệu được xác định thông qua SEM, EDS, XRD và FTIR. Vật liệu được nghiên cứu làm xúc tác cho hệ Fenton dị thể loại bỏ thuốc nhuộm methylene blue (MB) trong nước. Các kết quả thí nghiệm với nồng độ MB 0,1 g/L ở nhiệt độ phòng lựa chọn được điều kiện tối ưu là pH 2, thời gian phản ứng 90 phút, liều lượng vật liệu IOM 0,4 g/L và liều lượng H2O2 30% là 2,5 ml/L cho hiệu suất loại bỏ COD lên đến 93,75%. Từ khóa: Fenton dị thể, methylene blue, vật liệu Fe/Fe2O3/Fe3O4, phương pháp xanh, oxy hóa |
|
|
|