Skip Navigation Links.
Collapse  Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thủy lợi và Môi trường Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thủy lợi và Môi trường
 Số 93 (3/2025)
 Số 92 - Số Tiếng Anh (12/2024)
 Số 91 (12/2024)
 Số 90 (9/2024)
 Số 89 (6/2024)
 Số 88 (3/2024)
 Số 87 - Số Tiếng Anh (12/2023)
 Số 86 (12/2023)
 Số 85 (9/2023)
 Số 84 (6/2023)
 Số 83 (3/2023)
 Số 82 - Số Tiếng Anh (12/2022)
 Số 81 (12/2022)
 Số 80 (9/2022)
 Số 79 (6/2022)
 Số 78 (3/2022)
 Số 77 - Số Tiếng Anh (12/2021)
 Số 76 (12/2021)
 Số Đặc biệt (12/2021)
 Số 75 (9/2021)
 Số 74 (6/2021)
 Số 73 (3/2021)
 Số 72 - Số Tiếng Anh (12/2020)
 Số 71 (12/2020)
 Số 70 (9/2020)
 Số 69 (6/2020)
 Số 68 (3/2020)
 Số 67 (12/2019)
 Số Đặc biệt (10/2019)
 Số 66 (9/2019)
 Số 65 (6/2019)
 Số 64 (3/2019)
 Số 63 (12/2018)
 Số 62 (9/2018)
 Số 61 (6/2018)
 Số 60 (3/2018)
 Số 59 (12/2017)
 Số 58 (9/2017)
 Số 57 (6/2017)
 Số 56 (3/2017)
 Số 55 (11/2016)
 Số 54 (9/2016)
 Số 53 (6/2016)
 Số 52 (3/2016)
 Số 51 (12/2015)
 Số 50 (9/2015)
 Số 49 (6/2015)
 Số 48 (3/2015)
 Số 47 (12/2014)
 Số 46 (9/2014)
 Số 45 (6/2014)
 Số 44 (3/2014)
 Số 43 (12/2013)
 Số Đặc biệt (11/2013)
 Số 42 (9/2013)
 Số 41 (6/2013)
 Số 40 (3/2013)
 Số 39 (12/2012)
 Số 38 (9/2012)
 Số 37 (6/2012)
 Số 36 (3/2012)
 Số 35 (11/2011)
 Số Đặc biệt (11/2011)
 Số 34 (9/2011)
 Số 33 (6/2011)
 Số 32 (3/2011)
 Số 31 (12/2010)
 Số 30 (9/2010)
 Số 29 (6/2010)
 Số 28 (3/2010)
 Số 27 (11/2009)
 Số Đặc biệt (11/2009)
 Số 26 (9/2009)
 Số 25 (6/2009)
 Số 24 (3/2009)
 Số 23 (11/2008)
 Số 22 (9/2008)
 Số 21 (6/2008)
 Số 20 (3/2008)
 Số 19 (12/2007)
 Số 18 (9/2007)
 Số 17 (6/2007)
 Số 16 (3/2007)
 Số 15 (11/2006)
 Số 14 (8/2006)
 Số 13 (6/2006)
 Số 12 (3/2006)
 Số 11 (12/2005)
 Số 10 (9/2005)
 Số 9 (6/2005)
 Số 8 (2/2005)
 Số 7-C (11/2004)
 Số 7-V (11/2004)
 Số 7-N (11/2004)
 Số 7-K (11/2004)
 Số 7-NL (11/2004)
 Số 7-M (11/2004)
 Số 7-TH (11/2004)
 Số 7-LLCT (11/2004)
 Số 7-B (11/2004)
 Số 6 (9/2004)
 Số 5 (5/2004)
 Số 4 (02/2004)
 Số 3 (11/2003)
 Số 2 (9/2003)
 Số 1 (6/2003)
Số 79 (6/2022)



Print: Print this Article Email: Print this Article Share: Share this Article

Tháng 6 năm 2022

 
   
MỤC LỤC
Số 79 (6/2022) > trang 01-02 | Tải về (209.87 KB)
Sóng Rrayleigh truyền trong bán không gian đàn hồi trực hướng phủ bởi một lớp mỏng đàn điện
Số 79 (6/2022) > trang 03-09 | Tải về (240.84 KB)
Nguyễn Thị Khánh Linh
Tóm tắt
Bài báo nghiên cứu sự lan truyền của sóng Rayleigh trong một bán không gian đàn hồi trực hướng được phủ một lớp mỏng. Liên kết giữa lớp và bán không gian là gắn chặt và giả thiết lớp là đàn điện và bán không gian đàn hồi trực hướng nén được. Mục đích chính của bài báo này là đưa ra các phương trình tán sắc dạng hiện của sóng Rayleigh truyền trong cấu trúc vật liệu như trên. Bằng cách áp dụng phương pháp điều kiện biên hiệu dụng, tác giả đã thu được phương trình tán sắc xấp xỉ bậc 3. Có thể thấy rằng, phương trình này ở dạng hoàn toàn tường minh, có độ chính xác cao và sẽ hữu ích trong các ứng dụng thực tế.
Từ khóa: Sóng Rayleigh, bán không gian đàn hồi nén được, lớp mỏng đàn điện, phương trình tán sắc
Nghiên cứu xác định thành phần và đặc tính của rác phục vụ việc cải tạo và di dời bãi rác Trung Sơn - Thanh Hóa
Số 79 (6/2022) > trang 10-18 | Tải về (1047.52 KB)
Nguyễn Thị Thế Nguyên, Nguyễn Ngọc Linh, Mai Duy Khánh, Nguyễn Văn Kựu
Tóm tắt
Bãi rác phường Trung Sơn là bãi rác tập trung duy nhất của thành phố Sầm Sơn hoạt động từ năm 1997 với công suất xử lý 25 tấn rác một ngày đêm. Đây là bãi rác hở nên ảnh hưởng nhiều tới cuộc sống của người dân xung quanh và cần phải có biện pháp cải tạo hoặc di dời. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đưa ra cơ sở khoa học cho việc đề xuất, tính toán xử lý phần rác thải sau khi sàng loại bỏ mùn đất (được gọi là rác trên sàng). Kết quả nghiên cứu cho thấy rác trên sàng chủ yếu là chất thải từ sân vườn, gỗ (31,88%), nhựa (20,86%). Rác thải thực phẩm rất nhỏ (0,02%). Độ ẩm của rác trung bình là 60%. Nghiên cứu cũng đã xác định được lực ép tối ưu cho rác là 10 T/m2. Với lực ép này tỷ trọng trung bình của rác tăng từ 690 kg/m3 (trước ép) lên 1.290 kg/m3 (sau ép). Khối lượng và thể tích trung bình của các mẫu rác giảm tương ứng 20 và 41% sau khi ép. Độ ẩm của rác thải sau khi nén ép trung bình là 25% và nhiệt trị thấp của rác tăng lên đáng kể, biến thiên từ 5,7 đến 23 MJ/kg. Với lực ép tối ưu như trên, rác thải có thể xử lý bằng phương pháp thiêu đốt và thu hồi năng lượng để phát điện.
Từ khóa: Bãi rác Trung Sơn, nén ép rác, tính chất rác, thành phần rác
Mô phỏng số nghiên cứu ảnh hưởng của kỹ thuật tiếp khí tới đặc trưng lưu lượng của xi phông tháo lũ
Số 79 (6/2022) > trang 19-25 | Tải về (527.89 KB)
Phạm Văn Khôi, Phạm Thị Ngà, Đoàn Thị Hồng Ngọc
Tóm tắt
Bài báo trình bày kết quả mô phỏng số đặc trưng lưu lượng của xi phông tháo lũ ứng dụng trong công tác xả nước hồ chứa. Xi phông tháo lũ có ưu điểm là kết cấu đơn giản, lưu lượng xả nước tương đối lớn nhưng có nhược điểm khó kiểm soát lưu lượng khi xả lũ. Kỹ thuật tiếp khí được ứng dụng để điều chỉnh lượng khí vào trong ống xi phông, từ đó có thể điều khiển lưu lượng xả lũ theo ý muốn, tránh ngập lụt phía hạ lưu xi phông tháo lũ. Kết quả mô phỏng cho thấy lượng khí lấy vào ống xi phông tỷ lệ nghịch với lưu lượng xi phông tháo lũ. Tùy theo giá trị chiều cao cột nước tràn tại đỉnh xi phông, giá trị lưu lượng xả lũ biến thiên trong khoảng giá trị lưu lượng của kịch bản kín khí và của kịch bản đầy khí.
Từ khóa: Mô phỏng số, xi phông tháo lũ, lưu lượng xả nước, điều chỉnh khí, kỹ thuật tiếp khí
Khảo sát sự ổn định của xe khi chuyển làn bằng mô hình động lực học phức hợp
Số 79 (6/2022) > trang 26-32 | Tải về (510.85 KB)
Nguyễn Đức Ngọc, Nguyễn Tuấn Anh, Đặng Ngọc Duyên
Tóm tắt
Bài báo này tiến hành khảo sát sự ổn định của ô tô khi chuyển làn dựa trên một mô hình động lực học phức hợp. Mô hình này là sự kết hợp giữa mô hình động lực học không gian, mô hình động lực học hai dãy phi tuyến và mô hình lốp phi tuyến. Các thông số đầu vào của bài toán mô phỏng bao gồm vận tốc và góc đánh lái. Các kết quả đầu ra thu được là góc nghiêng thân xe, góc xoay thân xe, quỹ đạo chuyển động của xe, ... Quá trình mô phỏng được thực hiện bởi phần mềm MATLAB-Simulink với hai trường hợp cụ thể. Kết quả của nghiên cứu cho thấy rằng khi xe chuyển động ở tốc độ cao hoặc đánh lái với góc lớn hơn, sự thay đổi của các thông số đầu ra cũng lớn hơn. Điều này có thể gây nên sự mất ổn định cho xe khi di chuyển trong một số tình huống đặc biệt. Do đó, cần xác định điều kiện di chuyển tại từng thời điểm để có thể lựa chọn góc đánh lái chuyển làn phù hợp.
Từ khoá: Động lực học ô tô, chuyển làn đơn, mô phỏng
Đánh giá sự tích lũy Cadimi trong cây lúa trồng trên đất phù sa sông Hồng do ảnh hưởng của nước tưới ô nhiễm
Số 79 (6/2022) > trang 33-41 | Tải về (468.32 KB)
Vũ Thị Khắc, Lê Tuấn An, Đinh Thị Lan Phương, Nguyễn Thị Hằng Nga
Tóm tắt
Nghiên cứu được thực hiện trên đất canh tác nông nghiệp tại Đồng bằng sông Hồng với nguồn nước tưới từ hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải có hàm lượng Cadimi (Cd) trung bình 4 vụ liên tiếp (5/2019 - 5/2021) là 0,039 ppm. Dưới điều kiện canh tác thông thường, tiến hành thu mẫu theo 3 thời kỳ sinh trưởng của lúa để phân tích hàm lượng Cd thu được kết quả như sau: hàm lượng Cd tích lũy trong rễ tăng dần trong suốt vòng đời sinh trưởng của lúa với tốc độ gia tăng từ 1,1 – 1,2 lần. Hàm lượng Cd trong thân lá tăng nhanh theo 3 thời kỳ với tốc độ tích lũy trung bình là 3,9 lần. Kết quả thực nghiệm trong 4 vụ cho kết quả thống nhất về hàm lượng Cd trong hạt trung bình là 0,00575 ppm thấp hơn ngưỡng khuyến cáo của FAO (0,01 ppm). Đồng thời mối tương quan về hàm lượng Cd trong các bộ phận của cây lúa trùng khớp với nghiên cứu trong nhà lưới: hàm lượng Cd trong rễ > thân lá > hạt. Kết quả này là do từ khi hình thành đến khi chín, hạt lúa lấy 80% chất khô từ quá trình quang hợp, các dưỡng chất còn lại lấy từ rễ và lá; Ngoài ra, thời gian của quá trình tạo hạt chỉ chiếm 25% vòng đời của cây lúa, do đó lượng Cd tích lũy trong hạt thấp hơn trong thân lá và rễ.
Từ khóa: Ô nhiễm Cd, động thái tích lũy Cd trong lúa, Cd trong gạo
Carbon xanh trong hệ sinh thái rừng ngập mặn tại khu vực vườn quốc gia Xuân Thuỷ
Số 79 (6/2022) > trang 42-51 | Tải về (410.33 KB)
Hà Thị Hiền, Nguyễn Thị Kim Cúc
Tóm tắt
Carbon xanh tích luỹ tại các hệ sinh thái (HST) đại dương và HST ven biển, trong đó có HST rừng ngập mặn (RNM). Carbon xanh trong nghiên cứu này được thực hiện tại khu vực RNM thuộc Vườn Quốc gia Xuân Thuỷ. Nghiên cứu sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để đánh giá và định lượng giá trị carbon tích luỹ và trao đổi nhằm tính ra giá trị carbon tích luỹ trong RNM. Kết quả nghiên cứu cho thấy RNM có tổng giá trị carbon xanh tích luỹ là 208,18 MgC ha-1, trong đó carbon tồn lưu dưới mặt đất chiếm tỉ lệ trên 81% tổng giá trị carbon tích luỹ. Carbon trao đổi trong nước phụ thuộc lớn vào chu kỳ thuỷ triều và mùa trong năm (mùa mưa, mùa khô). Xu hướng này cũng tương tự với giá trị carbon phát thải từ các môi trường đất, nước vào khí quyển. Nghiên cứu tính được tổng lượng carbon đầu vào và đầu ra tương ứng của RNM lần lượt là 13,51 ± 5,60 MgC ha-1 năm-1 và 13,13 ± 5,27 MgC ha-1 năm-1. Từ các giá trị này nghiên cứu xác định được carbon tích lũy trong đất và sinh khối RNM còn lại là 7,29 MgC ha-1 năm-1. Đây là một giá trị carbon xanh tích luỹ rất lớn và cho thấy RNM là một bể chứa carbon xanh và làm giảm lượng carbon phát thải vào khí quyển.
Từ khoá: Carbon xanh, rừng ngập mặn, tích luỹ carbon, Vườn Quốc gia Xuân Thuỷ
Ảnh hưởng của hàm lượng sợi Polypropylene lên các đặc tính kỹ thuật của bê tông bọt
Số 79 (6/2022) > trang 52-61 | Tải về (863.37 KB)
Nguyễn Thị Mùi, Trịnh Thị Hà Phương, Nguyễn Thị Thanh, Lê Thị Thương
Tóm tắt
Để khuyến khích việc tái sử dụng các chất thải công nghiệp trong sản xuất vật liệu xây dựng cũng như tăng cường độ chịu uốn của bê tông bọt, nghiên cứu này sử dụng tro bay thay thế 40% xi măng làm chất kết dính kết hợp với các hàm lượng sợi polypropylene (PP) khác nhau trong sản xuất bê tông bọt. Bốn mẫu bê tông bọt được thiết kế với tỷ lệ nướcchất kết dính bằng 0,23 và hàm lượng sợi PP bằng 0; 0,3; 0,6; và 1,0% tổng khối lượng chất kết dính. Tất cả các mẫu bê tông trong nghiên cứu này có khối lượng thể tích khô trong khoảng 1000 ± 50 kg/m3. Kết quả nghiên cứu cho thấy, khi tăng hàm lượng sợi PP làm giảm khối lượng thể tích bê tông tươi và bê tông khô, hệ số truyền nhiệt, và vận tốc truyền xung siêu âm, tuy nhiên làm tăng độ hút nước, cường độ chịu nén và cường độ chịu uốn. Mẫu bê tông sử dụng 1% hàm lượng sợi PP cho cường độ chịu nén và chịu uốn cao nhất, và khối lượng thể tích cũng như hệ số truyền nhiệt nhỏ nhất. Ảnh hưởng của hàm lượng sợi PP lên cường độ chịu uốn rõ rệt và đáng kể hơn lên cường độ chịu nén. Các sợi PP đóng vai trò như cốt thép trong bê tông thông thường làm tăng cường độ chịu nén và chịu uốn của bê tông bọt.
Từ khóa: Bê tông bọt, sợi polypropylene, tro bay, cường độ chịu nén, cường độ chịu uốn, hệ số truyền nhiệt
Các nhân tố ảnh hưởng đến sự sẵn sàng tham gia của tư nhân vào lĩnh vực cung cấp nước sạch nông thôn trên địa bàn tỉnh Hà Nam
Số 79 (6/2022) > trang 62-70 | Tải về (417.61 KB)
Nguyễn Minh Tiến, Nguyễn Hữu Huế
Tóm tắt
Hiện nay có rất ít nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến sự sẵn sàng tham gia của các nhà đầu tư tư nhân vào lĩnh vực cung cấp nước sạch nông thôn, trong khi đây lại là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi một khi hiểu rõ về các nhân tố mới có thể đưa ra được các giải pháp phù hợp để khuyến khích sự tham gia của các nhà đầu tư vào lĩnh vực này.
Thông qua nghiên cứu định tính tác giả đã nhận diện được 26 nhân tố tiềm năng ảnh hưởng đến sự sẵn sàng tham gia của các nhà đầu tư tư nhân vào lĩnh vực cấp nước sạch tập trung nông thôn. Bằng nghiên cứu định lượng thông qua phân tích nhân tố EFA đã loại bỏ được 05 biến không phù hợp, kết quả cuối cùng còn lại 21 nhân tố. Tất cả các nhân tố đều hội tụ về nhóm riêng của mình và được sắp xếp thành 4 nhóm, số lượng các nhân tố con trong mỗi nhóm dao động từ 4 đến 6 nhân tố.
Từ khoá: Nước sạch nông thôn, đối tác công tư, PPP nước sạch
Phân tích tần suất mực nước cực đoan cho thành phố Hồ Chí Minh có xem xét đến tính không dừng trong chuỗi số liệu
Số 79 (6/2022) > trang 71-78 | Tải về (484.65 KB)
Lê Thị Hòa Bình, Đặng Đồng Nguyên
Tóm tắt
Gần đây, dưới sự biến đổi khí hậu liên quan đến các hoạt động của con người, khái niệm về tính không dừng trong chuỗi số liệu được áp dụng rộng rãi và thường xuyên hơn trong các phân tích tần suất của mực nước cực đoan. Trong nghiên cứu này, chuỗi giá trị mực nước cực đoan sẽ được mô phỏng dựa trên tính không dừng với biến số là thời gian. Kết quả từ nghiên cứu chỉ ra rằng, mô hình GEV-4 là phù hợp để mô phỏng mực nước cực đoan tại Phú An. Bên cạnh đó, giá trị thiết kế của mực nước dựa trên giả thiết về tính dừng nhỏ hơn đáng kể so với các giá trị mực nước dựa trên giả thiết về tính không dừng trong dữ liệu mực nước cho hầu hết các chu kỳ lặp lại khác nhau.
Từ khóa: Mực nước cực đoan, Tp.HCM, mực nước thiết kế, tính không dừng, Phú An
Thiết kế bộ điều khiển tối ưu cho hệ thống ổn định ngang chủ động trên ô tô con
Số 79 (6/2022) > trang 79-87 | Tải về (458.78 KB)
Phạm Trung Dũng, Vũ Văn Tấn, Trương Mạnh Hùng, Nguyễn Minh Trung
Tóm tắt
Hệ thống ổn định ngang chủ động là một hệ thống tiêu biểu có chức năng nâng cao tính ổn định ngang nhờ có thể thay đổi liên tục mô men xoắn phù hợp với các điều kiện chuyển động khác nhau để khắc phục các mô men gây lật ngang của ô tô con. Trong bài báo này các tác giả trình bày nghiên cứu thiết kế bộ điều khiển tối ưu LQR cho hệ thống ổn định ngang chủ động trên ô tô con với tín hiệu điều khiển được xác định là cường độ dòng điện i của cơ cấu chấp hành, tín hiệu kích thích là mấp mô biên dạng mặt đường ngẫu nhiên theo tiêu chuẩn ISO 8608 ở hai bên bánh xe. Ba bộ điều khiển tối ưu LQR được thiết kế với mục tiêu nâng cao tính ổn định ngang cho ô tô. Các chỉ tiêu quan trọng như biên độ dao động thẳng đứng, góc lắc ngang thân xe được khảo sát, đánh giá trên miền tần số và miền thời gian.
Từ khóa: Động lực học và điều khiển ô tô, hệ thống ổn định ngang chủ động, điều khiển tối ưu, ổn định ngang, lật ngang của ô tô con
Nghiên cứu ảnh hưởng của một số yếu tố thị trường điện đến doanh thu của nhà máy thủy điện
Số 79 (6/2022) > trang 88-95 | Tải về (389.91 KB)
Nguyễn Đức Nghĩa
Tóm tắt
Thị trường phát điện cạnh tranh đi vào hoạt động và có những bước phát triển lớn khi hơn 100 nhà máy điện với tổng công suất đặt trên 30000MW đã tham gia thị trường. Thiết kế và vận hành nhà máy thủy điện vận hành trong thị trường phức tạp hơn nhiều so với các nhà máy không tham gia thị trường. Tuy nhiên, việc xem xét các yếu tố thị trường điện vẫn ít được đề cập trong các nghiên cứu, cũng như trong đánh giá hiệu quả của các dự án thủy điện. Điều này dẫn đến những bất cập, khó khăn cho các nhà máy thủy điện khi tham gia thị trường điện, ảnh hưởng lớn đến tính hiệu quả của dự án. Trong bài báo này, chúng tôi nghiên cứu sự biến động doanh thu của nhà máy thủy điện khi tỷ lệ sản lượng hợp đồng thay đổi đồng thời với sự biến đổi của giá thị trường. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, một số kiến nghị được đề xuất trong việc xác định giá hợp đồng, tỷ lệ sản lượng hợp đồng cho các nhà máy thủy điện khi tham gia thị trường điện.
Từ khóa: Nhà máy thủy điện, thị trường điện, sản lượng hợp đồng, giá hợp đồng
Phân tích dao động riêng của dầm Nano cong FG nằm trên nền đàn hồi sử dụng phương pháp Rayleigh-Ritz
Số 79 (6/2022) > trang 96-103 | Tải về (1787.85 KB)
Trần Văn Kế, Nguyễn Thị Hồng
Tóm tắt
Trong bài báo này, phương pháp giải tích sử dụng các đa thức Chebyshev trên cơ sở phương pháp Rayleigh-Ritz để phân tích dao động riêng của dầm nano cong cơ tính biến thiên có lỗ rỗng đặt trên nền đàn hồi. Các phương trình động học tổng quát của dầm được suy ra từ nguyên lý Hamilton’s và lý thuyết biến dạng cắt bậc cao Quasi 3D. Cơ tính của vật liệu dầm thay đổi biến thiên theo chiều dày theo quy luật phân bố hàm số mũ và lỗ rỗng được mô tả theo hai quy luật đồng đều và không đồng đều. Môi trường nhiệt độ và độ ẩm tác động lên kết cấu được giả định chỉ gây ra tải trọng tác dụng theo phương ngang mà không tác động đến cơ tính vật liệu. Tính chính xác của phương pháp do bài báo đề xuất được xác minh bằng cách so sánh các kết quả số thu được với các kết quả của các công trình đã xuất bản trong tài liệu. Ngoài ra, ảnh hưởng của độ cong, hệ số phi địa phương, hệ số lỗ rỗng, hệ số độ cứng nền đàn hồi đến đáp ứng dao động riêng của dầm được đánh giá chi tiết.
Từ khóa: Đàn hồi phi địa phương, phương pháp Rayleigh-Ritz, dầm cong nano FG, dao động riêng
Nghiên cứu xác định độ sâu phù hợp để nhận chìm chất nạo vét ở biển Việt Nam dưới tác động của sóng
Số 79 (6/2022) > trang 104-111 | Tải về (495.53 KB)
Lê Đức Dũng, Trần Bảo Lộc, Nguyễn Văn Phan
Tóm tắt
Hiện nay trên thế giới cũng như ở Việt Nam hoạt động nhận chìm vật, chất ở biển đặc biệt là nhận chìm chất nạo vét tại các cảng biển, luồng lạch xuống biển là hoạt động đang diễn ra thường xuyên. Theo số liệu thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường cho đến năm 2021 trên cả nước có tổng 25 giấy phép nhận chìm đã được cấp để nhận chìm chất nạo vét ở biển, trong đó bao gồm 6 giấy phép do địa phương cấp và 19 giấy phép do Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp, với tổng khối lượng vật liệu nạo vét được nhận chìm theo các giấy phép được cấp là gần 74 triệu m3(Lê Đức Dũng, ĐTĐL.CN-57/20). Việc xác định khu vực nhận chìm ở biển đã được quy định tại Thông tư số 28/2019/TT-BTNMT ngày 31/12/2019 về quy định kỹ thuật đánh giá chất nạo vét và xác định khu vực nhận chìm chất nạo vét ở vùng biển Việt Nam. Tuy nhiên, một trong các yếu tố quan trọng quyết định đến việc xác định khu vực nhận chìm là độ sâu phù hợp để nhận chìm lại chưa được đưa ra một cách cụ thể và định lượng trong quy định này. Do đó, bài báo này tác giả sẽ tập trung vào việc nghiên cứu, đánh giá để đề xuất được độ sâu phù hợp cho nhận chìm chất nạo vét trên các vùng biển Việt Nam.
Từ khóa: Nhận chìm, chất nạo vét, vùng biển Việt Nam, tác động của sóng, độ sâu nhận chìm
Nghiên cứu khai thác dữ liệu dự báo mưa hạn dài cho lưu vực sông Trà Khúc
Số 79 (6/2022) > trang 112-119 | Tải về (833.68 KB)
Đặng Vi Nghiêm, Ngô Lê An, Nguyễn Thị Thu Hà
Tóm tắt
Dự báo tài nguyên nước hạn dài đóng vai trò quan trọng trong các bài toán lập kế hoạch sử dụng nước, quản lý tài nguyên nước và các hoạt động khác. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, các sản phẩm mưa dự báo số trị hạn dài ngày càng được nghiên cứu nâng cao chất lượng cũng như mức độ chi tiết. Nghiên cứu này tập trung đánh giá và nâng cao khả năng khai thác dữ liệu dự báo mưa mùa ECMWF-System5 thuộc Trung tâm dự báo hạn vừa châu Âu (ECMWF) ứng dụng cho lưu vực Trà Khúc với thời gian dự kiến dự báo 6 tháng thử nghiệm cho giai đoạn 1993-2016. Hai phương pháp hiệu chỉnh được xem xét là phương pháp hệ số tỷ lệ và phương pháp hồi quy tuyến tính. Kết quả cho thấy, cả hai phương pháp đều giúp cải thiện sai số tuyệt đối trung bình MAE giảm từ trung bình trên 50mm/tháng xuống dưới 10mm/tháng. Tuy nhiên, phương pháp hệ số tỷ lệ lại làm giảm hệ số tương quan R. Còn phương pháp hồi quy tuyến tính không làm thay đổi nhiều hệ số này. Nghiên cứu chỉ ra rằng, phương pháp hồi quy tuyến tính phù hợp để làm tăng chất lượng dữ liệu mưa dự báo hạn dài cho lưu vực Trà Khúc.
Từ khoá: ECMWF-System5, dự báo hạn dài, hiệu chỉnh sai số...
12