Skip Navigation Links.
Collapse  Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thủy lợi và Môi trường Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thủy lợi và Môi trường
 Số 93 (3/2025)
 Số 92 - Số Tiếng Anh (12/2024)
 Số 91 (12/2024)
 Số 90 (9/2024)
 Số 89 (6/2024)
 Số 88 (3/2024)
 Số 87 - Số Tiếng Anh (12/2023)
 Số 86 (12/2023)
 Số 85 (9/2023)
 Số 84 (6/2023)
 Số 83 (3/2023)
 Số 82 - Số Tiếng Anh (12/2022)
 Số 81 (12/2022)
 Số 80 (9/2022)
 Số 79 (6/2022)
 Số 78 (3/2022)
 Số 77 - Số Tiếng Anh (12/2021)
 Số 76 (12/2021)
 Số Đặc biệt (12/2021)
 Số 75 (9/2021)
 Số 74 (6/2021)
 Số 73 (3/2021)
 Số 72 - Số Tiếng Anh (12/2020)
 Số 71 (12/2020)
 Số 70 (9/2020)
 Số 69 (6/2020)
 Số 68 (3/2020)
 Số 67 (12/2019)
 Số Đặc biệt (10/2019)
 Số 66 (9/2019)
 Số 65 (6/2019)
 Số 64 (3/2019)
 Số 63 (12/2018)
 Số 62 (9/2018)
 Số 61 (6/2018)
 Số 60 (3/2018)
 Số 59 (12/2017)
 Số 58 (9/2017)
 Số 57 (6/2017)
 Số 56 (3/2017)
 Số 55 (11/2016)
 Số 54 (9/2016)
 Số 53 (6/2016)
 Số 52 (3/2016)
 Số 51 (12/2015)
 Số 50 (9/2015)
 Số 49 (6/2015)
 Số 48 (3/2015)
 Số 47 (12/2014)
 Số 46 (9/2014)
 Số 45 (6/2014)
 Số 44 (3/2014)
 Số 43 (12/2013)
 Số Đặc biệt (11/2013)
 Số 42 (9/2013)
 Số 41 (6/2013)
 Số 40 (3/2013)
 Số 39 (12/2012)
 Số 38 (9/2012)
 Số 37 (6/2012)
 Số 36 (3/2012)
 Số 35 (11/2011)
 Số Đặc biệt (11/2011)
 Số 34 (9/2011)
 Số 33 (6/2011)
 Số 32 (3/2011)
 Số 31 (12/2010)
 Số 30 (9/2010)
 Số 29 (6/2010)
 Số 28 (3/2010)
 Số 27 (11/2009)
 Số Đặc biệt (11/2009)
 Số 26 (9/2009)
 Số 25 (6/2009)
 Số 24 (3/2009)
 Số 23 (11/2008)
 Số 22 (9/2008)
 Số 21 (6/2008)
 Số 20 (3/2008)
 Số 19 (12/2007)
 Số 18 (9/2007)
 Số 17 (6/2007)
 Số 16 (3/2007)
 Số 15 (11/2006)
 Số 14 (8/2006)
 Số 13 (6/2006)
 Số 12 (3/2006)
 Số 11 (12/2005)
 Số 10 (9/2005)
 Số 9 (6/2005)
 Số 8 (2/2005)
 Số 7-C (11/2004)
 Số 7-V (11/2004)
 Số 7-N (11/2004)
 Số 7-K (11/2004)
 Số 7-NL (11/2004)
 Số 7-M (11/2004)
 Số 7-TH (11/2004)
 Số 7-LLCT (11/2004)
 Số 7-B (11/2004)
 Số 6 (9/2004)
 Số 5 (5/2004)
 Số 4 (02/2004)
 Số 3 (11/2003)
 Số 2 (9/2003)
 Số 1 (6/2003)
Số 63 (12/2018)



Print: Print this Article Email: Print this Article Share: Share this Article

Tháng 12 năm 2018

 
   
MỤC LỤC
Số 63 (12/2018) > trang 01-02 | Tải về (830.22 KB)
Sử dụng xỉ thép chế tạo bê tông đầm lăn ứng dụng trong xây dựng đường giao thông ở Việt Nam
Số 63 (12/2018) > trang 03-09 | Tải về (678.32 KB)
Nguyễn Quang Phú, Nguyễn Văn Lệ
Tóm tắt
Sử dụng xỉ thép, phụ gia khoáng và phụ gia siêu dẻo chế tạo bê tông đầm lăn có tính công tác tốt, cường độ nén cao phù hợp cho thi công các công trình giao thông. Khi thay thế chất kết dính bằng 30% Tro bay, thay thế đá dăm bằng xỉ thép với hàm lượng từ 10÷50%, kết hợp lượng dùng phụ gia siêu dẻo hợp lý sẽ chế tạo được bê tông đầm lăn có cường độ nén đạt trên 30MPa, đặc biệt khi thay thế 30% xỉ thép thì cường độ nén của bê tông đầm lăn ở 28 ngày tuổi là cao nhất, đạt 40,8 MPa. Bê tông đầm lăn chế tạo đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật cho thi công đường giao thông tại Việt Nam.

Từ khóa: Bê tông đầm lăn, Xỉ thép, Tro bay, Phụ gia siêu dẻo.
Đánh giá hoạt tính của tro bay theo phương pháp trực tiếp và gián tiếp
Số 63 (12/2018) > trang 10-16 | Tải về (752.89 KB)
Nguyễn Văn Hướng
Tóm tắt
Tính chất hóa học và vật lý của tro bay phụ thuộc vào nguồn gốc của than đá cũng như công nghệ đốt của nhà máy nhiệt điện. Do vậy, việc đánh giá tính chất hóa học, thành phần khoáng, tính chất vật lý và độ hoạt tính của tro bay là cần thiết. Trong nghiên cứu này, đánh giá độ hoạt tính của tro bay theo hai phương pháp (phương pháp trực tiếp và phương pháp gián tiếp) đã được thực hiện cũng như xem xét mối liên hệ giữa kết quả của hai phương pháp. Phương pháp trực tiếp là xác định lượng canxi hyđroxit phản ứng với tro bay bằng thiết bị phân tích nhiệt trọng lượng và phương pháp gián tiếp là xác định chỉ số hoạt tính cường độ nén. Kết quả đạt được cho thấy: các chỉ tiêu thí nghiệm của tro bay nghiên cứu thỏa mãn yêu cầu là loại phụ gia khoáng hoạt tính theo TCVN 10302:2014; đồng thời kết quả của phương pháp trực tiếp là cơ sở để giải thích hiệu quả của tro bay trong phát triển cường độ nén theo phương pháp gián tiếp thông qua hiệu ứng puzơlanic.

Từ khóa: Tro bay, phụ gia khoáng, puzơlanic, nhiệt trọng lượng, bê tông.
Nghiên cứu đánh giá và dự báo diễn biến chất lượng nước sông Đuống bằng phương pháp mô hình toán
Số 63 (12/2018) > trang 17-23 | Tải về (974.52 KB)
Trịnh Xuân Mạnh, Nguyễn Hà Anh, Nguyễn Tiến Quang
Tóm tắt
Trong bài báo này, mô hình toán thủy động lực học một chiều MIKE11 với hai mô đun thủy lực và sinh thái đã được áp dụng để mô phỏng đánh giá chất lượng nước sông Đuống cho giai đoạn hiện trạng và dự báo chất lượng nước trong tương lai dựa trên các kịch bản khác nhau. Nhóm tác giả sử dụng bộ số liệu đầu vào gồm địa hình, số liệu thủy lực, thủy văn và chất lượng nước thực đo các năm 2013 và 2014 để hiệu chỉnh và kiểm định mô hình. Sau đó, sử dụng bộ thông số đã hiệu chỉnh để mô phỏng dự báo chất lượng nước dựa trên dựa trên sự thay đổi tải lượng thải và lưu lượng nước ở thượng nguồn. Kết quả mô phỏng chất lượng nước cho hai chỉ tiêu DO và BOD5 trong tương lai được so sánh đánh giá với qui chuẩn môi trường nước mặt (QCVN08: 2015/BTNMT). Nhìn chung, tại một số vị trí nghiên cứu chất lượng nước sông nằm trong giới hạn cho phép của QCVN. Tuy nhiên, tại một số vị trí khác thì đều không đảm bảo nguồn cấp nước loại A2 theo qui chuẩn nhưng vẫn đảm bảo ở mức B1.

Từ khóa: Chất lượng nước, sông Đuống, MIKE 11 HD và MIKE 11 Ecolab
Nghiên cứu sử dụng vật liệu tại chỗ để gia cố đập đất Buôn Sa
Số 63 (12/2018) > trang 24-31 | Tải về (989.71 KB)
Mai Thị Hồng, Phạm Huy Dũng
Tóm tắt
Nhiều đập đất, sau một thời gian dài làm việc, đã xảy ra sự cố hoặc đang có các nguy cơ gây mất an toàn như thân đập bị lún, nứt, sạt trượt, hoặc bị thấm mạnh. Do đó cần có biện pháp gia cố thân đập, nhằm đảm bảo sự an toàn của đập cũng như năng lực sử dụng nước của hồ chứa. Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu thực nghiệm của mối quan hệ giữa hàm lượng hỗn hợp phụ gia xi măng, vôi, với vật liệu đắp đập đất tại chỗ nhằm tăng khả năng chống thấm cho hỗn hợp đất đắp. Kết quả nghiên cứu cho thấy, với hàm lượng vôi 3% kết hợp với 2% xi măng (theo khối lượng) có thể làm giảm đáng kể hệ số thấm của đất đắp đập. Ngoài ra, tác giả sử dụng phần mềm Geo Studio mô phỏng quá trình làm việc của đập đất Buôn Sa, Đăk Lăc, được gia cố với ứng dụng vật liệu tại chỗ, bằng phương pháp đắp áp trúc thượng lưu với các chiều dày lớp phủ thượng lưu thay đổi, để phân tích ổn định chống trượt và thấm của thân đập sau gia cố.

Từ khóa: Vật liệu gia cố, Nâng cấp đập, Đập đất.
Cấu trúc và sinh khối tích lũy trên mặt đất của rừng ngập mặn trồng tại vườn quốc gia Xuân Thủy
Số 63 (12/2018) > trang 32-39 | Tải về (1325.67 KB)
Hà Thị Hiền, Nguyễn Thị Kim Cúc
Tóm tắt
Rừng ngập mặn là một hệ sinh thái đặc biệt, tồn tại ở vùng đất chuyển tiếp giữa đất liền và đại dương. Đây là hệ sinh thái có năng suất sinh học cao do nhận được một lượng lớn chất dinh dưỡng từ trầm tích sông, biển. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định giá trị sinh khối tích lũy trên mặt đất của rừng Trang trồng tại khu vực Vườn Quốc gia Xuân Thủy. Kết quả của nghiên cứu đã thiết lập được phương trình tính toán sinh khối tích lũy theo kích thước và mật độ cây cũng như theo tuổi rừng. Các phương trình này được sử dụng để ước tính sinh khối trên mặt đất của rừng Trang trồng (Kandelia obovata). Sinh khối tích lũy trong rừng ngập mặn tăng dần theo thời gian, với giá trị ghi nhận được biến đổi từ 79,95 Mg ha-1 (rừng 18 tuổi) tới 87,66 Mg ha-1 (rừng 20 tuổi). Kết quả của nghiên cứu có thể được sử dụng để đánh giá khả năng tạo bể chứa khí nhà kính từ carbon tích lũy trong rừng ngập mặn trong bối cảnh biến đổi khí hậu trên toàn cầu.

Từ khóa: Rừng ngập mặn, cấu trúc, sinh khối, carbon tích lũy, Vườn Quốc gia Xuân Thủy
Một số nguyên tắc và giải pháp bảo tồn giá trị truyền thống của kiến trúc nhà ở dọc sông rạch vùng đồng bằng sông Cửu Long
Số 63 (12/2018) > trang 40-48 | Tải về (1964.16 KB)
Lê Thị Mai Hương
Tóm tắt
Vùng đất đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) với hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, thiên nhiên đa dạng. Từ xưa giao thông đường thủy trở thành phương tiện đi lại chủ yếu. Các hoạt động, sinh hoạt của người dân (buôn bán, trao đổi hàng hóa, nuôi trồng, sản xuất
nông nghiệp…) đều diễn ra gắn liền với sông nước. Trên thực tế những giá trị được hình thành từ xưa còn đến bây giờ như các chợ nổi, các vùng cù lao nổi tiếng, các quần thể cảnh quan đặc trưng sông nước Nam Bộ… đang trên đà suy thoái và có nguy cơ mất đi vì nhiều nguyên nhân.
Dưới góc nhìn của việc bảo tồn các giá trị truyền thống, kiến trúc nhà ở dọc sông cũng trên tinh thần tìm lại và phát huy những lối ứng xử vốn có của cư dân dựa trên khía cạnh kiến trúc, hình thái kiến trúc, quần thể, góp phần tăng nhận thức về một loại hình nhà ở vô cùng quan trọng, là đặc trưng không thể thiếu của vùng.

Từ khóa: Nhà ở dọc sông rạch, giá trị truyền thống của kiến trúc, nhà ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Xây dựng mô hình tối ưu đa mục tiêu để lựa chọn phương án cải tạo hệ thống thoát nước thành phố Sầm Sơn, Thanh Hóa
Số 63 (12/2018) > trang 49-57 | Tải về (1889.29 KB)
Đặng Minh Hải
Tóm tắt
Cải tạo hệ thống thoát nước nhằm đảm bảo cho hệ thống làm việc theo công suất thiết kế. Việc lựa chọn phương án cải tạo thoả mãn nhiều mục tiêu sẽ góp phần tăng hiệu quả đầu tư và giảm thiểu tác động tới môi trường. Bài báo đề xuất một mô hình tối ưu đa mục tiêu để lựa chọn phương án cải tạo hệ thống thoát nước thành phố Sầm Sơn, Thanh Hoá. Giải thuật di truyền NSGA-II được sử dụng để tìm tập hợp các phương án tối ưu (lời giải Pareto) cân bằng giữa 3 mục tiêu: chi phí cải tạo cống nhỏ nhất, tuổi thọ cống lớn nhất và ảnh hưởng tới giao thông nhỏ nhất. Kết quả là các đường đồng mức về chi phí cải tạo trong mối quan hệ với tuổi thọ cống và ảnh hưởng giao thông được thiết lập để hỗ trợ việc lựa chọn các phương án tối ưu. Ba phương án cân bằng gồm phương án A có chi phí cải tạo nhỏ nhất (1,25 tỷ đồng), phương án B có tuổi thọ cống cao nhất (78 năm) và phương án C có ảnh hưởng giao thông nhỏ nhất (0 phương tiện/giờ) đã được phân tích để cơ quan quản lý có cơ sở lựa chọn phương án tốt nhất. Việc sử dụng mô hình tối ưu đa mục tiêu đã định lượng ảnh hưởng của chi phí xã hội tới chi phí cải tạo hệ thống thoát nước.

Từ khóa: Hệ thống thoát nước, cải tạo, tối ưu hoá, NSGA-II.
Nghiên cứu giải pháp cấp nước phục vụ nuôi tôm nước lợ vùng ven biển Nam Trung bộ
Số 63 (12/2018) > trang 58-66 | Tải về (675.82 KB)
Nguyễn Văn Mạnh, Đặng Thị Kim Nhung, Trần Đình Dũng, Lê Quang Hưng
Tóm tắt
Nuôi tôm nước lợ là sinh kế quan trọng đối với người dân ven biển vùng Nam Trung Bộ nhờ điều kiện nuôi phù hợp và diện tích nuôi tiềm năng lớn. Tuy nhiên, tình hình phát triển của ngành chưa tương xứng với tiềm năng do hạ tầng kỹ thuật cấp thoát nước còn yếu kém. Nghiên cứu này sẽ tổng hợp và đánh giá hiện trạng hạ tầng cấp nước, thoát nước và xử lý nước thải trong các vùng nuôi tôm nước lợ ven biển Nam Trung Bộ, tính toán cân bằng nước và đề xuất giải pháp tạo nguồn cấp nước, giải pháp kỹ thuật về hạ tầng cấp nước cho các phân vùng nuôi. Kết quả tính toán là cơ sở để xây dựng kế hoạch phát triển thủy lợi cấp nước trong vùng cũng như kế hoạch đầu tư về hạ tầng nuôi tôm cho từng vùng nuôi, đảm bảo phát triển bền vững và ổn định sinh kế cho nhân dân.

Từ khóa: Cấp nước, cân bằng nước, Nam Trung Bộ, nuôi tôm nước lợ
Xây dựng mô hình mô phỏng thủy văn, cân bằng nước và điều tiết hồ chứa trên lưu vực sông Ba
Số 63 (12/2018) > trang 67-74 | Tải về (914.50 KB)
Cao Đình Huy, Lê Hùng, Hà Văn Khối
Tóm tắt
Bài báo giới thiệu một mô hình mô phỏng cân bằng nước và điều tiết dòng chảy được phát triển phục vụ cho tính toán cân bằng nước, quản lý nước và vận hành hệ thống hồ chứa cấp nước và phát điện trên lưu vực sông Ba (Ba-Model). Nghiên cứu này dựa trên cơ sở lý thuyết của mô hình NAM và ý tưởng của mô hình HEC-RESSIM để xây dựng chương trình mô phỏng của riêng mình nhằm dễ dàng can thiệp vào tính toán cân bằng nước cho lưu vực sông Ba cho phù hợp với tình hình thực tế. Mô hình được thiết lập đã được hiệu chỉnh và kiểm định đủ độ tin cậy và có thể áp dụng cho bài toán dự báo và vận hành các hồ chứa cấp nước và phát điện trên lưu vực sông Ba. Mô hình được hoàn thiện có thể được ứng dụng cho các lưu cực khác có điều kiện tương tự.

Từ khoá: Mô hình mô phỏng, cân bằng nước, hồ chứa, lưu vực sông Ba, dòng chảy kiệt
Đánh giá hiệu quả của vận hành quy trình liên hồ trên lưu vực sông Ba thời kỳ mùa kiệt
Số 63 (12/2018) > trang 75-84 | Tải về (1118.46 KB)
Cao Đình Huy, Lê Hùng, Hà Văn Khối
Tóm tắt
Quản lý lưu vực sông của các lưu vực miền Trung nói chung và lưu vực sông Ba nói riêng những năm gần đây luôn là vấn đề nóng không chỉ cho các nhà quản lý, vận hành khai thác mà còn cả trong các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Trên cùng lưu vực sông có rất nhiều cơ quan quản lý nguồn nước, các đơn vị khai thác khác nhau, nên luôn xảy ra tranh chấp, vì vậy Chính phủ đã liên tiếp ban hành quy trình liên hồ trên lưu vực sông Ba, nhằm khắc phục những hạn chế trên. Mức độ hiệu quả của Quy trình đã ban hành vẫn chưa được tối ưu, bởi những bất cập của nó chỉ được phát hiện ra khi gặp các tình huống cụ thể trong vận hành mà bằng chứng là các quy trình ban hành thay thế liên tục. Để có được cách nhìn tổng quát hơn và sớm đánh giá được mức độ hiệu quả của quy trình mà điều chỉnh cho phù hợp thì cần thiết có nghiên cứu đầy đủ, do vậy nghiên cứu này trình bày kết quả đánh giá mức hiệu quả của quy trình 878/QĐ-TTg và đề xuất phương án vận hành các hồ chứa trên lưu vực sông Ba phù hợp với thực tiễn.

Từ khoá: Nhu cầu nước, cân bằng nước, hồ chứa, lưu vực sông Ba, dòng chảy kiệt
Chỉ số tổn thương tài nguyên nước ngọt khu vực bán đảo Cà Mau
Số 63 (12/2018) > trang 85-90 | Tải về (1601.92 KB)
Nguyễn Đăng Tính, Trịnh Công Vấn, Phan Hữu Cường, Bùi Hồng Nga
Tóm tắt
Bán đảo Cà Mau (BĐCM) có diện tích chiếm tới khoảng 43% diện tích Đông bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) nhưng có vị trí xa nguồn nước ngọt của sông Hậu lại chịu tác động phức tạp của hai chế độ thủy triều Biển Đông và Biển Tây nên sử dụng tài nguyên nước (TNN) là vấn đề hết sức phức tạp. Trong tương lai, với tác động tiêu cực từ việc sử dụng nước của các nước thượng lưu Mekong cũng như tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH) và nước biển dâng (NBD) việc quản lý khai thác và sử dụng TNN ở khu vực này cần được đặt lên hàng đầu.
Kết quả tính toán chỉ số tổn thương tài nguyên nước cho thấy vùng BĐCM có nguy cơ suy thoái tài nguyên nước ở mức cao, đặc biệt liên quan đến các chỉ số về môi trường vì vậy cần nâng cao năng lực quản lý để giảm nguy cơ suy thoái tài nguyên nước.

Từ khóa: BĐCM, Tài nguyên nước, Tổn thương tài nguyên nước ngọt
Nghiên cứu ô nhiễm của Phthalat este (PAE) trong nước sông Kim Ngưu, Hà Nội
Số 63 (12/2018) > trang 91-97 | Tải về (791.90 KB)
Tô Xuân Quỳnh, Vũ Đức Toàn
Tóm tắt
Nghiên cứu trình bày các kết quả đánh giá về các PAE điển hình (6 PAE chỉ thị) của họ chất PAE trong các mẫu nước sông Kim Ngưu, Hà Nội. Kết quả cho thấy có sự ô nhiễm PAE ở phạm vi rộng. Nồng độ Σ6PAE trong mẫu nước nằm trong khoảng từ 2,73 đến 377,02 µg/l vào tháng 4/2018 và từ 2,70 đến 376,92 vào tháng 10/2018. Tại phần lớn các vị trí lấy mẫu, DEHP, DEP và DBP có phần trăm trung bình lớn hơn các PAE còn lại. Mức độ rủi ro môi trường tăng dần từ DBP (rủi ro rất thấp) đến DEP (rủi ro thấp) và DEHP (rủi ro thấp đến trung bình). Do PAE có khả năng tích tụ cao trong các thành phần môi trường, cần tiếp tục có các nghiên cứu tiếp theo về ô nhiễm của nhóm chất trên trong sông Kim Ngưu.

Từ khóa: Ô nhiễm, PAE, Nước.
Nghiên cứu sự làm việc của bê tông cốt sợi thép
Số 63 (12/2018) > trang 98-105 | Tải về (1199.39 KB)
Đặng Văn Phú
Tóm tắt
Bài báo nghiên cứu những đặc tính cơ học nổi trội của kết cấu bê tông cốt sợi thép so với kết cấu bê tông thông thường trong giai đoạn sau nứt của bê tông bằng việc kết hợp giữa các nghiên cứu có sẵn và làm thí nghiệm uốn ba điểm trên dầm bê tông cốt sợi thép với hai hàm lượng cốt sợi thép khác nhau, mối quan hệ giữa ứng suất kéo uốn và độ mở của miệng vết nứt của vật liệu khi chịu uốn sẽ được nghiên cứu và tạo nền tảng cho những nghiên cứu chuyên sâu hơn sau này. Từ đó, có thể đề xuất việc sử dụng vật liệu này cho các kết cấu tấm, vỏ trong thực tế để tăng cường khả năng chịu lực của kết cấu.

Từ khóa: Bê tông cốt sợi, sợi thép, ứng suất kéo uốn, kết cấu tấm, kết cấu vỏ mỏng
Xếp hạng mức độ ảnh hưởng của các yếu tố rủi ro đến chi phí đầu tư xây dựng thủy điện vừa và nhỏ ở Việt Nam
Số 63 (12/2018) > trang 106-110 | Tải về (736.43 KB)
Đỗ Văn Chính
Tóm tắt
Do đặc điểm của quá trình đầu tư và đặc điểm của sản xuất xây dựng, có rất nhiều yếu tố rủi ro xuất hiện trong các dự án đầu tư xây dựng các dự án thuỷ điện vừa và nhỏ. Trên cơ sở tổng quan các nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam, nhận diện các yếu tố rủi ro xuất hiện trong các dự án thủy điện vừa và nhỏ ở Việt Nam tác giả đã xác định được có 28 yếu tố rủi ro ảnh hưởng đến các dự án đầu tư xây dựng thủy điện vừa và nhỏ ở Việt Nam. Việc nhận dạng và phân tích các rủi ro là rất quan trọng giúp các nhà quản lý đưa ra các phương án hạn chế, giảm thiểu những rủi ro và giúp các nhà đầu tư đưa ra các quyết định đầu tư vào các dự án.Bài báo này sẽ xác định mức độ ảnh hưởng và xếp hạng mức độ ảnh hưởng của 28 yếu tố rủi ro này đến chi phí đầu tư xây dựng các dự án thủy điện vừa và nhỏ ở Việt Nam.

Từ khóa: Thủy điện vừa và nhỏ, xếp hạng mức độ ảnh hưởng, Rủi ro trong dự án thủy điện vừa và nhỏ
12