Skip Navigation Links.
Collapse  Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thủy lợi và Môi trường Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thủy lợi và Môi trường
 Số 94 (6/2025)
 Số 93 (3/2025)
 Số 92 - Số Tiếng Anh (12/2024)
 Số 91 (12/2024)
 Số 90 (9/2024)
 Số 89 (6/2024)
 Số 88 (3/2024)
 Số 87 - Số Tiếng Anh (12/2023)
 Số 86 (12/2023)
 Số 85 (9/2023)
 Số 84 (6/2023)
 Số 83 (3/2023)
 Số 82 - Số Tiếng Anh (12/2022)
 Số 81 (12/2022)
 Số 80 (9/2022)
 Số 79 (6/2022)
 Số 78 (3/2022)
 Số 77 - Số Tiếng Anh (12/2021)
 Số 76 (12/2021)
 Số Đặc biệt (12/2021)
 Số 75 (9/2021)
 Số 74 (6/2021)
 Số 73 (3/2021)
 Số 72 - Số Tiếng Anh (12/2020)
 Số 71 (12/2020)
 Số 70 (9/2020)
 Số 69 (6/2020)
 Số 68 (3/2020)
 Số 67 (12/2019)
 Số Đặc biệt (10/2019)
 Số 66 (9/2019)
 Số 65 (6/2019)
 Số 64 (3/2019)
 Số 63 (12/2018)
 Số 62 (9/2018)
 Số 61 (6/2018)
 Số 60 (3/2018)
 Số 59 (12/2017)
 Số 58 (9/2017)
 Số 57 (6/2017)
 Số 56 (3/2017)
 Số 55 (11/2016)
 Số 54 (9/2016)
 Số 53 (6/2016)
 Số 52 (3/2016)
 Số 51 (12/2015)
 Số 50 (9/2015)
 Số 49 (6/2015)
 Số 48 (3/2015)
 Số 47 (12/2014)
 Số 46 (9/2014)
 Số 45 (6/2014)
 Số 44 (3/2014)
 Số 43 (12/2013)
 Số Đặc biệt (11/2013)
 Số 42 (9/2013)
 Số 41 (6/2013)
 Số 40 (3/2013)
 Số 39 (12/2012)
 Số 38 (9/2012)
 Số 37 (6/2012)
 Số 36 (3/2012)
 Số 35 (11/2011)
 Số Đặc biệt (11/2011)
 Số 34 (9/2011)
 Số 33 (6/2011)
 Số 32 (3/2011)
 Số 31 (12/2010)
 Số 30 (9/2010)
 Số 29 (6/2010)
 Số 28 (3/2010)
 Số 27 (11/2009)
 Số Đặc biệt (11/2009)
 Số 26 (9/2009)
 Số 25 (6/2009)
 Số 24 (3/2009)
 Số 23 (11/2008)
 Số 22 (9/2008)
 Số 21 (6/2008)
 Số 20 (3/2008)
 Số 19 (12/2007)
 Số 18 (9/2007)
 Số 17 (6/2007)
 Số 16 (3/2007)
 Số 15 (11/2006)
 Số 14 (8/2006)
 Số 13 (6/2006)
 Số 12 (3/2006)
 Số 11 (12/2005)
 Số 10 (9/2005)
 Số 9 (6/2005)
 Số 8 (2/2005)
 Số 7-C (11/2004)
 Số 7-V (11/2004)
 Số 7-N (11/2004)
 Số 7-K (11/2004)
 Số 7-NL (11/2004)
 Số 7-M (11/2004)
 Số 7-TH (11/2004)
 Số 7-LLCT (11/2004)
 Số 7-B (11/2004)
 Số 6 (9/2004)
 Số 5 (5/2004)
 Số 4 (02/2004)
 Số 3 (11/2003)
 Số 2 (9/2003)
 Số 1 (6/2003)
Số 80 (9/2022)



Print: Print this Article Email: Print this Article Share: Share this Article

Tháng 9 năm 2022

 
   
MỤC LỤC
Số 80 (9/2022) > trang 01-02 | Tải về (208.47 KB)
Tối ưu khối lượng kết cấu dàn sử dụng các thuật toán Mê-ta Ơ-rít-tíc
Số 80 (9/2022) > trang 03-10 | Tải về (264.07 KB)
Cao Trường Sơn, Nguyễn Hữu Huế, Trương Việt Hùng
Tóm tắt
Các thuật toán mê-ta ơ-rít-tíc đang được sử dụng rộng rãi cho thiết kế tối ưu công trình nhờ khả năng mạnh mẽ của chúng trong việc tìm kiếm các nghiệm tối ưu toàn cục. Tuy nhiên, hiệu quả của các thuật toán này còn tùy thuộc vào đặc điểm của lớp bài toán tối ưu được xem xét. Do đó, việc hiểu rõ ưu nhược điểm của các thuật toán tối ưu là hết sức cần thiết để có thể vận dụng một cách hiệu quả trong công tác thiết kế. Trong bài báo này, ba thuật toán tối ưu mê-ta ơ-rít-tíc hiện đại được nghiên cứu áp dụng cho bài toán thiết kế tối ưu kết cấu dàn sử dụng phân tích phi tuyến tính phi đàn hồi bao gồm: giải thuật di truyền vi mô (micro-GA), thuật toán tối ưu Rao và thuật toán tiến hóa vi phân thích nghi (EapDE). Dàn thép không gian 72 thanh với 16 biến thiết kế được xem xét cho cả hai trường hợp biến rời rạc và biến liên tục. Kết quả cho thấy EapDE tìm được kết quả và tốc độ tối ưu tốt hơn hai thuật toán còn lại.
Từ khóa: Dàn thép, tối ưu, giải thuật di truyền, Rao, tiến hóa vi phân, phân tích trực tiếp
Cơ sở lý thuyết cho bài toán tối ưu hóa động sử dụng phân bổ nước cho mục tiêu tưới và phát điện
Số 80 (9/2022) > trang 11-17 | Tải về (288.57 KB)
Bùi Anh Tú, Phan Hoài Linh, Trần Trung Dũng, Trần Văn Mạnh
Tóm tắt
Tài nguyên nước đang bị suy giảm nghiêm trọng do biến đổi khí hậu, sự khai thác quá mức của con người. Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, nhu cầu sử dụng nước ngày một gia tăng trong tương lai cần thiết phải sử dụng tối ưu tài nguyên nước. Để sử dụng tài nguyên nước hiệu quả, đối với công trình vừa có nhiệm vụ cấp nước tưới vừa phát điện, tính toán phân bổ tối ưu tài nguyên nước là việc rất cần thiết, từ đó đưa ra lời giải cho bài toán quy hoạch và quản lý tài nguyên nước hiệu quả. Nghiên cứu này tập trung vào cơ sở lý thuyết cho bài toán sử dụng mô hình tối ưu hóa động trong phân bổ tài nguyên nước. Kết quả của nghiên cứu này là xây dựng cơ sở lý thuyết cho tưới và phát điện trong điều kiện của một hệ thống đa hồ chứa và ứng dụng ở lưu vực sông Lô – Gâm – Chảy.
Từ khóa: Tối ưu hóa, phát điện, đa hồ chứa
Mô hình hóa hoạt động khai thác cát trên sông/biển sử dụng bơm hút bằng Telemac
Số 80 (9/2022) > trang 18-25 | Tải về (785.78 KB)
Trần Thị Thu Thảo, Hoàng Trung Thống, Đoàn Thanh Vũ, Lê Ngọc Diệp
Tóm tắt
Mô hình hóa hoạt động khai thác cát bằng bơm hút là một vấn đề trong ứng dụng mô hình toán số. Nhiều nghiên cứu trước đây mô hình hóa hoạt động khai thác cát trên đáy sông bằng bơm hút và hoạt động nạo vét được mô hình hóa giống nhau. Cách tiếp cận này dẫn đến chưa mô phỏng được quá trình hút cát theo thời gian thực cùng với quá trình thủy động lực và vận chuyển bùn cát. Mục tiêu của bài báo này là đưa ra một phương pháp mô hình hóa hoạt động khai thác cát bằng bơm hút theo thời gian thực. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự thay đổi của đáy sông diễn ra phù hợp về mặt vật lý, sai số rất thấp 0,002%. Phương pháp này có thể áp dụng linh hoạt với công suất khai thác cát thay đổi theo thời gian, và có thể ứng dụng tương tự cho bài toán nuôi bãi.
Từ khóa: Khai thác cát bằng bơm hút, Telemac, Sisyphe
Nghiên cứu ảnh hưởng ma sát âm đến sức chịu tải của cọc bê tông cốt thép ở khu lấn biển Kiên Giang
Số 80 (9/2022) > trang 26-34 | Tải về (374.08 KB)
Lâm Nguyệt Duyên, Nguyễn Bảo Trí, Mok Vannet, Nguyễn Quỳnh Như
Tóm tắt
Bài viết trình bày nghiên cứu về ảnh hưởng ma sát âm của đất đến sức chịu tải của cọc Bê tông đúc sẵn ở khu vực lấn biển Rạch Giá Kiên Giang. Cụ thể, tính toán phân tích ảnh hưởng của ma sát âm trong công trình dân dụng khu vực lấn biển TP. Rạch Giá Kiên Giang trong trường hợp lớp đất san lấp lớn hơn 1m. Từ đó, giúp đưa ra những phương án thiết kế an toàn và hiệu quả.
Từ khóa: Ma sát âm, sức chịu tải của cọc, cọc bê tông cốt thép
Nghiên cứu ứng dụng mưa vệ tinh tính toán chỉ số SPI cho những vùng không có số liệu đo mưa trên lưu vực sông Sedone
Số 80 (9/2022) > trang 35-43 | Tải về (804.02 KB)
Phoutsadee Sida, Nguyễn Quang Phi, Nguyễn Hoàng Sơn, Souphanphon Thiravong
Tóm tắt
Trên lưu vực sông Sedone có rất ít các trạm đo mưa. Các dữ liệu đo mưa hiện nay hầu hết được đo tại các trạm đo mưa và phân bố không đều trên lưu vực. Nghiên cứu này sử dụng số liệu mưa vệ tinh CHIRPS có độ phân giải cao (~5.5 km) với số liệu mưa tháng từ năm 1981 đến nay để tính toán chỉ số chuẩn hóa lượng mưa (SPI) cho những vùng không có số liệu đo mưa trên lưu vực sông Sedone. Kết quả nghiên cứu cho thấy tương quan giữa mưa tháng thực đo và vệ tinh CHIRPS tại các trạm đo mưa có hệ số tương quan > 0,7, phù hợp để tính toán. Kết quả tính toán SPI 3, 6, 9 từ mưa tháng thực đo và vệ tinh CHIRPS tại 8 trạm đo mưa cũng cho hệ số tương quan >0,7 với SPI 3, SPI 9, hệ số tương quan >0,8 với SPI 6. Từ các kết quả kiểm định tính toán mưa vệ tinh, nghiên cứu đã tính toán chỉ số SPI 3,6,9 cho các vùng không có số liệu đo mưa. Các kết quả tính toán SPI theo không gian có thể cho các nhà quản lý, người dùng nắm bắt được những vùng nào có khả năng bị hạn cao thay vì giá trị tại các điểm có số liệu đo mưa tại trạm.
Keywords: Dữ liệu mưa vệ tinh, SPI, lưu vực Sedone
Phân tích an toàn hệ thống kè bảo vệ bờ sông theo lý thuyết độ tin cậy
Số 80 (9/2022) > trang 44-55 | Tải về (543.23 KB)
Nguyễn Lan Hương, Nguyễn Quang Hùng, Nguyễn Thanh Hằng
Tóm tắt
Hàng năm, Việt Nam phải đầu tư rất nhiều tiền để xây dựng các công trình bảo vệ bờ trên các hệ thống sông để giảm thiểu các thiệt hại về người và tài sản do xói lở bờ sông gây ra. Hiện trạng sạt lở bờ xảy ra thường xuyên trên các tuyến sông do nhiều nguyên nhân và sạt lở càng nghiêm trọng hơn trong các đợt mưa lũ kéo dài. Các giải pháp kè bảo vệ mái với nhiều thức kết cấu linh hoạt là các biện pháp hiệu quả để tăng cường ổn định cho bờ sông chống các tác hại xói lở bờ, giữ cho dòng chảy trong sông ổn định, kết hợp bảo vệ cầu, đường giao thông và đáp ứng yêu cầu cảnh quan đô thị. Với các số liệu thu thập được, nghiên cứu đã xây dựng bài toán tính xác suất an toàn cho hệ thống kè sông Lô đoạn qua thành phố Tuyên Quang theo lý thuyết độ tin cậy. Các tính toán đã chỉ ra rằng: hệ thống kè sông Lô đảm bảo an toàn phòng lũ với tần suất lũ thiết kế P =5% và an toàn theo độ tin cho phép (tiêu chuẩn của Nga) khi không kể đến ảnh hưởng của độ dài tuyến kè và hệ thống kè có khả năng bị sự cố khi kể đến độ dài của 7 đoạn kè sông; khi cần thiết phải nâng cấp sửa chữa tuyến kè thì cần quan tâm nhiều nhất đến đoạn kè số 5 vì đây là đoạn có độ tin cậy thấp nhất và ảnh hưởng lớn nhất đến sự cố hệ thống.
Từ khóa: Sạt lở bờ sông, độ tin cậy, xác suất sự cố, kè sông, biến ngẫu nhiên, hàm tin cậy
Mô hình số bài toán phân tích ảnh hưởng của quá trình cố kết nền do hạ cọc đúc sẵn đến sức chịu tải của cọc
Số 80 (9/2022) > trang 56-64 | Tải về (608.20 KB)
Hoàng Thị Lụa
Tóm tắt
Thời gian gần đây, với sự phát triển của công nghệ thi công, cọc đúc sẵn trở thành xu hướng được sử dụng đại trà, do đó độ chính xác trong tính sức chịu tải của cọc cũng được đặt ra. Khi hạ cọc vào nền, thể tích cọc chiếm chỗ và đẩy đất ra phía xung quanh khiến trạng thái ứng suất tổng và biến dạng của một phạm vi đất xung quanh vỏ cọc bị thay đổi. Trong nền đất dính bão hòa, ứng suất tăng thêm thời điểm đầu truyền vào nước lỗ rỗng của đất, được gọi là ứng suất không hiệu quả hay còn gọi là ứng suất trung hòa, ứng suất này sau đó tiêu tan dần theo thời gian và chuyển sang ứng suất hiệu quả. Khi ứng suất đất xung quanh cọc bị thay đổi thì sức chịu tải của cọc cũng thay đổi theo. Do đó, bài báo này nghiên cứu về sự biến đổi sức chịu tải của cọc đúc sẵn hạ trong đất dính bão hòa, xem xét đến ảnh hưởng của quá trình cố kết nền do việc hạ cọc gây ra, sử dụng mô hình số. Kết quả nghiên cứu cho thấy sức chịu tải của cọc tăng lên đáng kể sau quá trình cố kết nền do hạ cọc.
Từ khóa: Cố kết nền, khả năng chịu tải của cọc, cọc đúc sẵn, mô hình số
Nghiên cứu cải thiện chế độ làm việc của động cơ xe taxi khi hoạt động trong thành phố
Số 80 (9/2022) > trang 65-70 | Tải về (373.01 KB)
Trần Văn Hoàng, Đinh Văn Phương, Nguyễn Thanh Bình, Trần Trọng Thể
Tóm tắt
Ở Việt Nam người dân sử dụng dịch vụ taxi tương đối nhiều, nhất là những đô thị lớn. Đối với đội hình xe taxi được sử dụng trong các thành phố lớn thì hầu hết đang sử dụng những xe có lắp động cơ xăng thế hệ cũ, sử dụng cơ cấu phối khí cơ khí, không có bộ xử lý khí xả. Khi chế tạo động cơ đốt trong cho xe ô tô, người ta thường chọn chế độ thiết kế là chế độ tải định mức, bởi vậy động cơ sẽ làm việc hiệu quả ở chế độ tải cao và tốc độ lớn. Tuy nhiên khi xe taxi hoạt động trong thành phố, tốc độ xe thấp, xe thường hay phải dừng đỗ nên động cơ thường xuyên hoạt động ở tải bộ phận. Khi động cơ hoạt động ở chế độ này sẽ gây tiêu tốn nhiên liệu và tăng mức phát thải trong khí xả ra môi trường. Vì vậy, cần thiết phải cải thiện chế độ làm việc của động cơ trên xe taxi. Bài báo này sẽ nghiên cứu cải thiện chế độ làm việc động cơ để giảm tiêu hao nhiên liệu và giảm phát thải của động cơ.
Từ khóa: Động cơ, phát thải, tốc độ, nhiên liệu
Dự báo mực nước trên sông Kiến Giang sử dụng phương pháp hồi quy
Số 80 (9/2022) > trang 71-80 | Tải về (2602.04 KB)
Đinh Nhật Quang, Tạ Quang Chiểu, Đào Thị Huệ, Nguyễn Thị Kim Ngân
Tóm tắt
Mô hình dự báo sự thay đổi của mực nước sông gần đây được sử dụng như một công cụ hỗ trợ cho các nhà quản lý trong việc đề xuất các giải pháp thích ứng và giảm nhẹ rủi ro thiên tai do lũ. Các mô hình định hướng dữ liệu sử dụng phương pháp học máy đã trở thành một cách tiếp cận hấp dẫn và hiệu quả để mô phỏng và dự báo biến động mực nước sông. Trong nghiên cứu này, các mô hình dựa trên phương pháp hồi quy tuyến tính (LR), Random Forest Regression (RFR) và Light Gradient Boosting Machine Regression (LGBMR) được xây dựng để dự đoán mực nước hàng ngày trên sông Kiến Giang dựa trên bộ dữ liệu thu thập từ năm 1977 đến năm 2020. Các chỉ số thống kê R2, NSE, MAE và RMSE được tính toán để kiểm tra độ tin cậy của ba mô hình đề xuất. Kết quả nghiên cứu chỉ ra hiệu quả của các thuật toán hồi quy trong việc dự báo mực nước lũ, đặc biệt là phương pháp hồi quy tuyến tính với các chỉ số R2, NSE, MAE và RMSE lần lượt là 0,959; 0,958; 6,67 cm và 12,2 cm.
Từ khoá: Dự báo mực nước, học máy, phương pháp hồi quy, sông Kiến Giang
Nghiên cứu lưu tốc mạch động và áp suất mạch động ở hạ lưu tràn xả lũ thủy điện Hòa Bình
Số 80 (9/2022) > trang 81-89 | Tải về (826.08 KB)
Nguyễn Thế Hùng, Trần Vũ, Lê Nguyên Trung, Nguyễn Văn Sơn
Tóm tắt
Dòng chảy sau hạ lưu công trình luôn là một chủ đề phức tạp do sự biến động về phương chiều cũng như giá trị. Sự biến động hình thành nên lưu tốc mạch động của cả vận tốc và áp suất. Trong nghiên cứu này, lưu tốc mạch động và áp suất mạch động hạ lưu tràn xả lũ thủy điện Hòa Bình được xác định thông qua việc mô phỏng bằng mô hình vật lý. Dựa trên số liệu đo đạc được vận tốc không xói và áp suất cực đại dọc theo hạ lưu tràn xả lũ sẽ được xác định. Đây sẽ là cơ sở để lựa chọn vật liệu cũng như tính toán ổn định cho các công trình chống xói lở hạ lưu tràn xả lũ.
Từ khoá: Áp suất mạch động, lưu tốc mạch động, mô hình vật lý, thủy điện Hòa Bình
Phương pháp gần đúng xác định độ cứng ngang hiệu dụng của gối cách chấn đàn hồi cốt sợi không liên kết
Số 80 (9/2022) > trang 90-95 | Tải về (256.09 KB)
Ngô Văn Thuyết
Tóm tắt
Gối cách chấn đàn hồi cốt sợi không liên kết là loại gối cách chấn đa lớp mới đang được nghiên cứu trong hơn hai mươi năm qua. Gối được đặt trực tiếp lên trên phần đài móng và dưới phần thân công trình mà không cần bất kỳ liên kết vật lý nào giữa chúng. Ứng xử ngang của gối cách chấn đàn hồi cốt sợi không liên kết tương đối phức tạp do có một phần gối không tiếp xúc với công trình. Độ cứng ngang hiệu dụng của gối cách chấn là một thông số quan trọng trong thiết kế công trình cách chấn đáy, xác định dựa trên ứng xử ngang của gối cách chấn. Nghiên cứu này trình bày phương pháp gần đúng xác định độ cứng ngang hiệu dụng của gối cách chấn đàn hồi cốt sợi không liên kết thông qua một công thức toán học và kết quả tính toán từ phương pháp này được kiểm chứng với kết quả xác định bằng phương pháp phân tích mô hình số.
Từ khóa: Gối cách chấn, gối cách chấn đàn hồi cốt sợi không liên kết, ứng xử ngang, độ cứng ngang hiệu dụng
Nghiên cứu các phương pháp xây dựng giá sản phẩm dịch vụ thủy lợi phục vụ tưới cho sản xuất nông nghiệp phù hợp với điều kiện của Việt Nam
Số 80 (9/2022) > trang 96-105 | Tải về (334.92 KB)
Trương Đức Toàn
Tóm tắt
Luật Thủy lợi được ban hành năm 2017 đánh dấu sự thay đổi lớn trong chính sách của ngành trong đó có việc triển khai áp dụng giá sản phẩm, dịch vụ thủy lợi. Ngày 1/7/2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 33/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược thủy lợi Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 với mục tiêu phát triển thủy lợi theo hướng hiện đại và đặt ra những yêu cầu mới trên tinh thần thủy lợi là ngành kinh tế quan trọng, phải tính đúng, tính đủ về giá nước đối với các sản phẩm, dịch vụ có liên quan. Tuy nhiên, việc áp dụng phương pháp định giá nhằm nâng cao tính hiệu quả quản lý khai thác hệ thống công trình thủy lợi phụ thuộc vào nhiều yếu tố và là vấn đề còn nhiều tranh luận. Bài viết này tóm lược các phương pháp xác định giá nước tưới và phân tích sự phù hợp của từng phương pháp để khuyến nghị lựa chọn áp dụng trong bối cảnh hiện đại hóa hệ thống thủy lợi và thực hiện chính sách giá sản phẩm, dịch vụ thủy lợi trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam. Một số khuyến nghị được đưa ra nhằm định hướng và thúc đẩy thực hiện chính sách giá sản phẩm, dịch vụ thủy lợi trong thời gian tới.
Từ khóa: Phương pháp, định giá, dịch vụ thủy lợi, hiệu quả, phát triển bền vững
Thông tin khoa học: Xứ Lạng có hồ Bản Lải lớn nhất tỉnh
Số 80 (9/2022) > trang 106-107 | Tải về (187.42 KB)
Việt Bắc
Tóm tắt
Hồ Bản Lải, công trình thủy lợi lớn nhất, ở sông lớn nhất của tỉnh Lạng Sơn đã đang đi vào hoạt động, phát huy hiệu quả như nhiệm vụ đặt ra với nó. Công trình được khởi công ngày 20/10/2018 với tổng mức đầu tư toàn bộ hệ thống là xấp xỉ 3 nghìn tỷ đồng. Đến nay hồ chứa nước Bản Lải đã căn bản hoàn thành.