|
Nghiên cứu phương pháp đánh giá chất lượng vận hành phát điện của nhà máy thủy điện
Số 74 (6/2021)
>
trang 03-09
|
Tải về (503.15 KB)
Nguyễn Đức Nghĩa
|
Tóm tắt
Hiệu quả sử dụng nước được đặc biệt quan tâm trong công tác vận hành các công trình thủy điện. Hiện nay, trong vận hành các công trình thủy điện sử dụng một số tiêu chí, công cụ khác nhau để đánh giá chất lượng vận hành phát điện, trong đó phổ biến nhất là so sánh điện năng thu được trong một năm so với giá trị thiết kế. Nhược điểm của phương pháp này là chỉ đánh giá được chế độ thủy văn của công trình mà không đánh giá được mức độ hiệu quả sử dụng nước. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đề xuất một số phương pháp đánh giá chất lượng vận hành phát điện của nhà máy thủy điện cũng như điều kiện áp dụng của chúng. Các phương pháp đánh giá này đã được áp dụng cho một số nhà máy thủy điện ở Việt Nam như Bảo Lâm 1, Bảo Lạc B, Cẩm Thủy 1, Mường Hum, Hương Điền, … Kết quả thu được cho thấy phương pháp đã đánh giá chính xác và thúc đẩy cải tiến phương thức vận hành, nâng cao hiệu quả sử dụng nước trong vận hành phát điện các nhà máy thủy điện. Từ khóa: Nhà máy thủy điện, hiệu quả sử dụng nước, chất lượng vận hành |
|
|
Khả năng áp dụng của phương pháp “Lagrangian Coherent Structures” trong dự đoán đường đi của các hạt trôi nổi
Số 74 (6/2021)
>
trang 10-16
|
Tải về (328.17 KB)
Vũ Huy Công, Nguyễn Văn Hướng
|
Tóm tắt
Trong bài báo này, khả năng áp dụng của phương pháp "Lagrangian Coherent structures (LCS)" trong nghiên cứu dự đoán đường đi của các hạt trôi nổi sẽ được đánh giá dựa trên mô hình số. Trường hợp nghiên cứu điển hình được chọn là trường hợp các hạt vật chất trôi trong môi trường dòng chảy phía sau vật cản là hình trụ tròn, khu vực có hình thành các xoáy nước phức tạp. Nghiên cứu đã sử dụng đồng thời hai phương pháp là LCS và phương pháp mô phỏng theo vết đối tượng để theo dõi đường đi của các nhóm hạt có kích thước và khối lượng khác nhau. Dựa trên kết quả so sánh của hai phương pháp trên, nghiên cứu đã chỉ ra kích thước của các nhóm hạt có thể dự đoán được đường đi khi dùng phương pháp LCS. Kết quả cho thấy, phương pháp LCS có thể dự báo khá chính xác đường đi của các hạt khi chúng có hệ số Stoke nhỏ hơn 0.1. Từ khoá: “Lagrangian Coherent Structures”, hình trụ, hệ số Stoke |
|
|
Tác động của thiên tai và biến đổi khí hậu đến cơ sở hạ tầng trên địa bàn tỉnh Bình Thuận
Số 74 (6/2021)
>
trang 17-26
|
Tải về (420.35 KB)
Trương Đức Toàn, Đỗ Văn Quang, Phạm Thị Thanh Trang, Đặng Văn Thanh
|
Tóm tắt
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa và thường xuyên phải đối mặt với các loại hình thiên tai. Do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, các hiện tượng thiên tai được dự báo sẽ xảy ra ngày càng phức tạp và khó dự đoán, gây thiệt hại đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực của nền kinh tế. Tác động của thiên tai, biến đổi khí hậu đối với Việt Nam là rất nghiêm trọng, là nguy cơ hiện hữu cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của đất nước. Nghiên cứu này sử dụng các mô hình kinh tế lượng để xem xét tác động của thiên tai có xét đến biến đổi khí hậu đến cơ sở hạ tầng trên địa bàn tỉnh Bình Thuận. Số liệu sơ cấp thu thập từ các hộ dân và số liệu thứ cấp thu thập từ tài liệu thống kê của các đơn vị quản lý ngành trên địa bàn tỉnh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các biến số về thiên tai, khí hậu và các yếu tố liên quan khác có quan hệ thống kê với thiệt hại về cơ sở hạ tầng. Kết quả nghiên cứu hàm ý chính sách nhằm làm giảm tác động của thiên tai và biến đổi khí hậu trong thời gian tới. Từ khóa: Thiên tai, Biến đổi khí hậu, Tác động, Mô hình, Chính sách |
|
|
Nghiên cứu ảnh hưởng của dung dịch kiềm hoạt hóa đến một số tính chất của bê tông Geopolymer
Số 74 (6/2021)
>
trang 27-31
|
Tải về (221.03 KB)
Nguyễn Quang Phú, Ngô Thị Ngọc Vân
|
Tóm tắt
Thiết kế thành phần bê tông Geopolymer thay đổi tỷ lệ dung dịch kiềm hoạt hóa (NaOH và Na2SiO3) và hỗn hợp phụ gia khoáng (Xỉ lò cao hoạt tính và Tro bay) tương ứng là 0.3, 0.4, 0.5 và 0.6. Sử dụng dung dịch kiềm hoạt hóa với tỷ lệ sodium silicate và sodium hydroxide là 2.0. Kết quả cho thấy khi tỷ lệ dung dịch kiềm hoạt hóa tăng lên thì cường độ và tính công tác của bê tông Geopolymer tăng lên, quá trình hoạt hóa diễn ra triệt để hơn. Từ khóa: Bê tông Geopolymer; Dung dịch kiềm hoạt hóa; Cường độ nén; Sodium silicate; Sodium hydroxide |
|
|
Ảnh hưởng của kết cấu tường đỉnh đến dòng phản hồi trước chân đê biển mái nghiêng trong bão
Số 74 (6/2021)
>
trang 32-38
|
Tải về (511.99 KB)
Nguyễn Thị Phương Thảo
|
Tóm tắt
Kết cấu tường đỉnh của đê biển mái nghiêng, được xem là giải pháp làm giảm sóng tràn khá phổ biến ở Việt Nam. Chính sự có mặt của tường đỉnh này làm thay đổi đặc trưng sóng, dòng phản hồi và do đó ảnh hưởng đến xói bồi trong bão. Bài báo này trình bày kết quả nghiên cứu cấu trúc của dòng phản hồi và ảnh hưởng của kết cấu tường đỉnh trên đê biển mái nghiêng đến dòng phản hồi trong bão có sóng tràn qua đê bằng cách thiết lập mô hình vật lý trong máng sóng. Kết quả cho thấy tường đỉnh ảnh hưởng đáng kể đến phân bố và độ lớn của dòng phản hồi. Từ khóa: Dòng phản hồi, đê biển mái nghiêng, tường đỉnh, mô hình lòng cứng, bão |
|
|
Nghiên cứu đề xuất áp dụng phương trình mất đất phổ dụng (USLE) trong dự báo xói mòn do hoạt động sản xuất nông nghiệp vùng núi phía Bắc Việt Nam
Số 74 (6/2021)
>
trang 39-45
|
Tải về (1493.56 KB)
Trần Minh Chính, Nguyễn Văn Kiên, Nguyễn Trọng Hà
|
Tóm tắt
Xói mòn đất từ lâu được coi là nguyên nhân gây thoái hóa tài nguyên đất nghiêm trọng ở vùng đồi núi phía Bắc của Việt Nam. Nghiên cứu này đã đề xuất phương trình dự báo xói mòn đất của hoạt động sản xuất nông nghiệp miền núi phía Bắc nước ta trên cơ sở hiệu chỉnh hệ số xói mòn do cây trồng của phương trình mất đất phổ dụng. Mô hình dự báo hiệu chỉnh hệ số xói mòn do thực vật (C) khắc phục được hạn chế do phân bố độ che phủ do cơ cấu mùa vụ và phân bố lượng mưa không đều trong năm. Điều này, thể hiện qua giá trị hệ số tương quan R của phương pháp thông thường và đề xuất là 0,69 và 0,8 và Sai số bình phương trung bình quân phương RMSE tương ứng là 82,09 và 11,01. Từ khóa: USLE, Xói mòn đất, Đất đốc, Miền núi phía Bắc |
|
|
Phân tích chế độ thủy động lực khu vực Cửa Lở huyện Núi Thành, Quảng Nam
Số 74 (6/2021)
>
trang 46-54
|
Tải về (1531.58 KB)
Nguyễn Quang Đức Anh, Nguyễn Hiệp, Hồ Sỹ Tâm, Nguyễn Trung Việt
|
Tóm tắt
Trong những thập kỷ gần đây, khu vực Cửa Lở tỉnh Quảng Nam đã và đang diễn ra tình trạng xói lở và bồi lấp rất nghiêm trọng. Các nghiên cứu dựa vào phân tích ảnh viễn thám đã chỉ ra rằng nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng xói lở ở khu vực bờ Nam và bồi tụ ở khu vực bờ Bắc của Cửa Lở là do sự dịch chuyển của cửa diễn ra liên tục trong nhiều năm từ phía Bắc về phía Nam. Các nghiên cứu này mới chỉ dừng lại chủ yếu phân tích diễn biến hình thái, các quá trình tương tác sóng – dòng chảy và mối liên hệ của nó đến quả trình biến đổi hình thái của khu vực Cửa Lở vẫn chưa được làm rõ. Trong bài báo này, nhóm tác giả đã thiết lập và mô phỏng mô hình thủy động lực và vận chuyển bùn cát (DELFT3D) để phân tích các đặc điểm thủy động lực và ảnh hưởng của nó đến quá trình biến đổi hình thái của khu vực Cửa Lở. Từ khoá: Cửa Lở, lưu lượng sông, dòng triều, sóng gió mùa, trao đổi nước |
|
|
Mô phỏng rung khử ứng suất dư và đánh giá khả năng tăng giới hạn mỏi của phương pháp
Số 74 (6/2021)
>
trang 55-61
|
Tải về (1340.19 KB)
Đỗ Văn Sĩ, Bùi Mạnh Cường, Nguyễn Thị Hồng
|
Tóm tắt
Bài báo sử dụng phần mềm ANSYS Workbench để tiến hành mô phỏng trường ứng suất dư sinh ra trên chi tiết thông qua quá trình nhiệt và sự thay đổi trường ứng suất dư bằng dao động (rung khử ứng suất dư). Trường ứng suất dư trên chi tiết trước và sau khi rung khử được đưa vào chương trình tính toán để đánh giá khả năng tăng giới hạn mỏi của phương pháp rung khử ứng suất dư. Độ tin cậy của mô phỏng và tính toán được đánh giá so với kết quả thực nghiệm, qua đó cho thấy phương pháp mô phỏng và tính toán hoàn toàn phù hợp với thực tế. Kết quả của bài báo cho phép đánh giá khả năng cải thiện giới hạn mỏi của chi tiết máy của phương pháp rung khử ứng suất dư nhanh chóng, qua đó có thể lựa chọn được chế độ rung hợp lý để nâng cao chất lượng rung khử ứng suất dư. Từ khóa: Ứng suất dư, giới hạn mỏi, rung khử ứng suất dư |
|
|
Nghiên cứu sử dụng cát biển và tro bay chế tạo bê tông Geopolymer
Số 74 (6/2021)
>
trang 62-66
|
Tải về (433.84 KB)
Ngô Thị Ngọc Vân, Nguyễn Quang Phú
|
Tóm tắt
Sử dụng cát biển thay thế cát tự nhiên, kết hợp Tro bay với dung dịch kiềm hoạt hóa và phụ gia siêu dẻo giảm nước để chế tạo bê tông Geopolymer. Bê tông Geopolymer thiết kế với các tỷ lệ dung dịch kiềm hoạt hóa và phụ gia khoáng từ 0,35 đến 0,65. Kết quả cho thấy, khi sử dụng cát biển thay thế cát tự nhiên chế tạo bê tông Geopolymer thì cường độ nén giảm từ 5 đến 14% cho các mác bê tông tương ứng, bê tông có mác chống thấm từ W12 đến W14. Từ khóa: Bê tông Geopolymer, Dung dịch kiềm hoạt hóa, Tro bay, Cát biển, Phụ gia siêu dẻo |
|
|
Nghiên cứu ứng dụng mô hình phân phối weibull trong phân tích triển vọng phát triển điện gió tại xã An Ninh Đông, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên
Số 74 (6/2021)
>
trang 67-75
|
Tải về (6024.13 KB)
Hồ Ngọc Dung, Trịnh Quốc Công
|
Tóm tắt
Việt Nam được đánh giá là quốc giá có tiềm năng lớn về năng lượng gió. Đây là nguồn năng lượng thân thiện với môi trường và tái tạo trong thiên nhiên. Trong thiết kế trạm điện gió, tốc độ gió chính là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến việc lựa chọn thông số của tuabin gió cũng như đánh giá hiệu quả thông qua sản lượng điện phát ra của dự án. Để tính toán xác định được sản lượng điện phát ra của nhà máy cần xây dựng mô hình phân phối vận tốc gió hợp lý dựa trên số liệu đo gió tại khu vực dự án. Nghiên cứu đã ứng dụng hàm Weibull để lựa chọn hai tham số hình dạng và tỷ lệ của mô hình phân phối Weibull trong phân tích tốc độ gió theo mô hình hồi quy tuyến tính. Nghiên cứu được ứng dụng tính toán tính khả thi về mặt phát điện của dự án điện gió tại địa điểm An Ninh Đông, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Kết quả cho thấy địa điểm An Ninh Đông có tiềm năng năng lượng gió lớn để xây dựng trạm điện gió. Từ khóa: Năng lượng gió, phân phối Weibull, tham số hình dạng, tham số tỷ lệ |
|
|
Mô phỏng phương pháp thực nghiệm xác định “thoát không” dưới tấm bê tông bản mặt bằng mô hình số
Số 74 (6/2021)
>
trang 76-83
|
Tải về (722.62 KB)
Nguyễn Thái Hoàng, Nguyễn Công Thắng
|
Tóm tắt
“Thoát không” là hiện tượng xuất hiện các khoảng trống dưới tấm bê tông bản mặt của đập CFRD do biến dạng của thân đập và các lớp đệm. “Thoát không” gây ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng bởi hiện tượng này có thể dẫn đến việc phân bố lại ứng suất và thay đổi cơ chế làm việc của tấm bê tông bản mặt dẫn đến giảm khả năng chống thấm và tuổi thọ của công trình. Nguy hại hơn hiện tượng này có thể dẫn đến sự cố sập gẫy bản mặt bê tông phía thượng lưu khiến đập bị phá hủy. Bài báo trình bày kết quả mô phỏng phương pháp thực nghiệm xác định “thoát không” bằng mô hình số để kiểm tra tính khả thi của phương pháp được đề xuất. Từ khóa: đập CFRD, hiện tượng “thoát không”, tần số dao động riêng, tải trọng kích động |
|
|
Nghiên cứu ứng dụng ảnh vệ tinh Sentinel 2 để xác định vị trí trượt lở đất bằng mô hình phân loại Random Forest
Số 74 (6/2021)
>
trang 84-93
|
Tải về (2964.65 KB)
Đoàn Viết Long, Nguyễn Chí Công, Phạm Thành Hưng, Nguyễn Tiến Cường
|
Tóm tắt
Trong nghiên cứu về trượt lở đất ở Việt Nam, nguồn dữ liệu về hiện trạng trượt lở chưa được thu thập đầy đủ do khó khăn trong công tác đo đạc xác định vị trí và thời gian trượt lở. Với sự phát triển của khoa học quan sát Trái đất và khoa học máy tính, công nghệ xử lý ảnh viễn thám có thể giải quyết vấn đề này. Nghiên cứu này sử dụng kỹ thuật phân tích ảnh viễn thám Sentinel 2 để nhận dạng vị trí trượt lở. Hai ảnh vệ tinh trước và sau khi xảy ra trượt lở được sử dụng để phân tích. Vị trí các điểm trượt lở được xác định dựa trên phân tích sự thay đổi của chỉ số thảm thực vật NDVI, sử dụng mô hình phân loại Random Forest (RF) và kỹ thuật chồng chập bản đồ. Kết quả kiểm định cho thấy mô hình RF cho độ chính xác toàn cục đạt 98.2% và chỉ số Kappa đạt 0.95. Kết quả kiểm chứng tại 2 vị trí trượt lở bằng dữ liệu ảnh chụp thực tế đã cho thấy khả năng áp dụng của mô hình này. Từ khóa: Trượt lở đất, Sentinel 2, phần mềm SNAP, Random Forest, NDVI |
|
|
Nghiên cứu sử dụng zeolite tự nhiên, than sinh học và phân rơm để hạn chế tích lũy kim loại nặng chì và cadimi trong rau ăn lá do sử dụng nước tưới ô nhiễm
Số 74 (6/2021)
>
trang 94-102
|
Tải về (497.08 KB)
Nguyễn Thị Giang, Nguyễn Thị Ngọc Dinh, Nguyễn Thị Phương, Nguyễn Thị Hằng Nga
|
Tóm tắt
Ô nhiễm nước trên các hệ thống thủy lợi đã ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng nông sản. Bài báo này đề cập đến giải pháp sử dụng một số vật liệu khoáng sét zeolite, than sinh học và phân rơm để hạn chế tích lũy kim loại nặng Pb và Cd trong rau ăn lá do sử dụng nước tưới ô nhiễm góp phần nâng cao chất lượng nông sản an toàn và bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Nghiên cứu đã thực hiện các thí nghiệm trong nhà lưới với nguồn nước tưới giả định nồng độ ô nhiễm Pb 0,5ppm và Cd 0,1ppm, đối tượng cây trồng gồm rau cải và mồng tơi, trồng 03 vụ liên tiếp. Các chất phối trộn vào đất gồm zeolite, than sinh học và phân rơm. Kết quả cho thấy bổ sung 3% zeolite đã làm giảm 39,9-46,7% hàm lượng Pb và 57,1-62,5% hàm lượng Cd di động trong đất. Bổ sung 5% than sinh học và phân rơm làm giảm 19,48-21,47 % hàm lượng Pb và 37,61-39,47% hàm lượng Cd đi động trong đất. Tỉ lệ phối trộn khoáng sét zeolite 2-3% (400-600 kg/ha) đã làm giảm tích lũy của Pb khoảng 60,3-70,5% và Cd khoảng 60,3-70,5% trong lá rau cải và mồng tơi. Tỉ lệ phối trộn phân rơm và than sinh học 5% (100 kg/ha) có thể giảm được 40-45% tích lũy Pb và 45-50 % tích lũy Cd trong lá rau. Từ khoá: Chất lượng nước tưới, kim loại nặng, khoáng sét, than sinh học, phân rơm |
|
|
Đánh giá khả năng sử dụng các sản phẩm mưa vệ tinh để mô phỏng dòng chảy bằng mô hình thủy văn
Số 74 (6/2021)
>
trang 103-111
|
Tải về (1457.89 KB)
Phạm Thành Hưng, Nguyễn Quang Bình, Võ Nguyễn Đức Phước
|
Tóm tắt
Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá khả năng sử dụng các sản phẩm mưa vệ tinh (MSWEP, TMPA 3B42, TMPA 3B42RT, PERSIANN CDR, PERSIANN RT) để mô phỏng dòng chảy trong mô hình thủy văn SWAT tại lưu vực Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam. Kết quả phân tích chỉ ra rằng sai số của các sản phẩm mưa vệ tinh so với mưa trạm đo là khá lớn, và theo đó gây ra sai số trong kết quả mô phỏng dòng chảy. Các sản phẩm mưa vệ tinh dựa vào thông tin sóng siêu cao tần (MW) như TMPA cho kết quả mô phỏng dòng chảy và thời gian xuất hiện đỉnh lũ tốt hơn các sản phẩm mưa vệ tinh dựa vào thông tin sóng hồng ngoại (IR) như PERSIANN. Nghiên cứu này lần đầu tiên phân tích việc hiệu chỉnh lại mô hình đồng thời cho nhiều sản phẩm mưa vệ tinh khác nhau. Kết quả hiệu chỉnh lại mô hình chỉ ra rằng khó có thể xây dựng một bộ tham số dùng chung cho nhiều sản phẩm mưa vệ tinh khác nhau. Từ khóa: Mưa vệ tinh, mô hình thủy văn SWAT, hiệu chỉnh, kiểm định, Nông Sơn |
|
|
|